Bản án 01/2021/HNGĐ-ST ngày 13/01/2021 về hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRIỆU SƠN, TỈNH THANH HÓA

 BẢN ÁN 01/2021/HNGĐ-ST NGÀY 13/01/2021 VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 13 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Triệu Sơn mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 291/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2020/QĐXX-ST ngày 16 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn C - Sinh năm: 1967.

Nơi đăng ký HKTT: Xóm 5 xã D, huyện T, tỉnh Thanh Hóa.

Địa chỉ tạm trú: Số X , phường Y, quận T, thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Chị Lê Thị M - Sinh năm 1965.

Địa chỉ: Xóm Z, xã D, huyện T, tỉnh Thanh Hóa.

Tại phiên tòa, có mặt anh C, chị M.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện ngày 29 tháng 9 năm 2020, các văn bản tố tụng do Tòa án tiến hành và tại phiên tòa, nguyên đơn là anh Nguyễn Văn C trình bày: Anh và chị Lê Thị M sống chung với nhau trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu và tổ chức cưới từ năm 1998. Đến năm 2005, anh chị mới đi đăng ký kết hôn và được UBND xã Dân L, huyện T, tỉnh Thanh Hóa cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 124/2005 ngày 07 tháng 9 năm 2005. Vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do bất đồng trong quan điểm sống, chị M hay đặt điều, ghen tuông, nói xấu anh khắp nơi làm cho anh mất mặt với anh em họ hàng, làng xóm.

Anh đi chở hàng thuê bằng xe ba gác để lấy tiền nuôi con học đại học nhưng chị lại nói anh đi với gái. Ngoài ra, chị M còn nói xấu các dì về cướp đất của chị nhưng thực tế đất không phải của chị M. Nhiều lần anh nhịn nhục, chịu đựng vì con cái nhưng chị M ngày càng quá đáng. Gia đình anh đã họp yêu cầu chị M xin lỗi và sửa chữa cái sai nhưng chị M không xin lỗi còn có thái độ thách thức anh. Mỗi khi vợ chồng nói chuyện với nhau là chửi nhau. Vợ chồng sống ly thân từ năm 2016, không còn quan tâm đến nhau, cuộc sống của ai người đó tự lo. Đến nay, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, tình cảm không thể hàn gắn được, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Lê Thị M.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung cháu Nguyễn Thị H sinh ngày 17/5/1998, cháu Nguyễn Văn K sinh ngày 23/6/2000. Cháu H đã đi lấy chồng, cháu K hiện đang đi học đại học. Hiện nay các cháu đã trưởng thành, khỏe mạnh, ở với ai là do các cháu quyết định, không yêu cầu Tòa giải quyết.

Về tài sản: Anh C trình bày vợ chồng không có tài sản chung, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết phần tài sản cũng như công sức đóng góp vào tài sản của bà N và bà T. Sau khi chị M có yêu cầu về tài sản thì anh C trình bày: Vợ chồng sống nhờ trên đất của bà ngoại là bà Hà Thị N (mất năm 2006). Thửa đất này của cha ông để lại, bà N không có con trai nên bà T con gái bà N sang tên trích lục và làm nhà thờ để thờ cúng tổ tiên. Anh không đồng ý trích công sức vì nhà đất không phải của anh mà hiện nay nhà đất là của bà T.

Tại Biên bản ghi lời khai ngày 13/10/2020, bị đơn là chị Lê Thị M trình bày: Anh C trình bày về điều kiện kết hôn và mâu thuẫn vợ chồng như vậy là đúng thực tế. Nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, anh C có quan hệ với nhiều phụ nữ khác. Vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2016 cho đến nay, không còn quan tâm gì đến nhau, không còn tình cảm. Tại phiên tòa, chị M trình bày chị phải sống nhịn nhục gia đình chồng rất nhiều vì nhiều lần chị bị người trong gia đình chồng đánh nhưng anh C bỏ mặc không quan tâm bảo vệ chị. Gia đình có tổ chức họp yêu cầu chị xin lỗi nhưng chị không xin lỗi vì chị không làm gì sai. Chị cũng đã có biện pháp núi kéo hàn gắn tình cảm gia đình để con có cả bố và mẹ nhưng anh C không đồng ý đoàn tụ. Anh C xin ly hôn, chị không đồng ý ly hôn, vì lý do chị già rồi không muốn ly hôn và muốn con cái có cả bố và mẹ, còn anh C muốn lấy ai thì lấy chị không quan tâm.

Vợ chồng có hai con chung như anh C trình bày. Cháu Nguyễn Thị H sinh ngày 17/5/1998, cháu Nguyễn Văn K sinh ngày 23/6/2000. Cháu H đã đi lấy chồng ở riêng, cháu K đang học đại học. Hiện nay các cháu đã trưởng thành, khỏe mạnh, ở với ai là tùy các cháu quyết định, không yêu cầu Tòa giải quyết.

Về tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản chung.

Về tài sản và công sức đóng góp: Gia đình chị ở nhà và đất của bà ngoại anh C là bà Hà Thị N (đã mất), hiện nay thửa đất đứng tên bà Lê Thị T, trên đất có một ngôi nhà cấp 4 do bà T làm năm 2003 cho bà N ở, 01 nhà thờ do bà T làm tháng 4/2020. Chị đề nghị anh C và bà T trích công sức 23 năm chị sinh sống trên thửa đất bằng 1 suất đất ở hoặc 600.000.000đ . Chị đã nhận được thông báo nộp tiền tạm ứng án phí ngày 13/10/2020 của Tòa án huyện Triệu S nhưng chị không nộp tiền tạm ứng án phí. Gia đình chị không thuộc hộ nghèo hoặc cận nghèo.

Tòa án tiến hành xác minh về tình trạng hôn nhân của vợ chồng anh C và chị M, tài sản nhà đất thửa 532 tờ bản đồ số 9 Bản đồ địa chính xã D tại địa chỉ xóm 5, xã D, huyện T, đại diện Uỷ ban nhân dân xã Dân L cung cấp: Anh C và chị M chung sống với nhau từ năm 1998, có hai con chung tên là Nguyễn Thị H và Nguyễn Văn K, các cháu đều đã trưởng thành. Năm 2005 anh C và chị M đến UBND xã D đăng ký kết hôn và được cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 07/9/2005. Quá trình vợ chồng chung sống phát sinh mâu thuẫn, mỗi người sống mỗi nơi, anh C đi làm ăn trong thành phố Hồ Chí Minh thi thoảng có về thăm nhà rồi lại đi. Hiện nay, chị M đang sống cùng bà Lê Thị T là mẹ đẻ của anh Chúc tại thửa đất có nguồn gốc của bà Hà Thị N đến tháng 3/2020 thì sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Lê Thị T, trên đất có 01 căn nhà cấp bốn và một nhà thờ.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa phát biểu quan điểm: Thẩm phán, HĐXX và Thư ký phiên tòa đã tiến hành các thủ tục tố tụng theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự cung cấp tài liệu chứng cứ cho Tòa án, tuân theo sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa.

Về nội dung: Đề nghị HĐXX: Về hôn nhân áp dụng khoản 1 Điều 56 LHNGĐ: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh C, xử cho anh được ly hôn chị M. Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Thị H sinh ngày 17/5/1998, cháu Nguyễn Văn K sinh ngày 23/6/2000. Hiện nay, các cháu đã trưởng thành nên không xét.Về phần tài sản và công sức đóng góp, do chị M không nộp tiền tạm ứng án phí có giá ngạch đối với yêu cầu về tài sản do đó không xem xét giải quyết trong vụ án này, dành cho chị M quyền khởi kiện vụ án khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Kiện xin ly hôn chị Minh có hộ khẩu thường trú tại xã D, huyện T, tỉnh Thanh Hóa nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Triệu Sơn theo khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Anh C và chị M chung sống với nhau từ năm 1998, đến năm 2005 mới kết hôn trên cơ sở tự nguyện được Ủy ban nhân dân xã D, huyện T cấp giấy chứng nhận kết hôn nên đây là hôn nhân hợp pháp.

Anh Cvà chị M chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống dẫn đến vợ chồng không còn tin tưởng, chia sẻ, giúp đỡ, thương yêu, đùm bọc lẫn nhau trong cuộc sống. Chị M trình bày anh C có quan hệ với nhiều phụ nữ khác nhưng chị không có chứng cứ chứng minh mức độ các mối quan hệ của anh C làm ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình. Chị M cũng đã có biện pháp hàn gắn tình cảm nhưng vợ chồng vẫn không đoàn tụ được. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành hòa giải nhiều lần nhưng không thành. Tại phiên tòa, anh C cương quyết đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn, chị M xác định vợ chồng không còn thương yêu nhau nữa, đã sống ly thân một thời gian dài, cuộc sống của ai người đó tự lo. Điều đó chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, HĐXX chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh C, xử cho anh được ly hôn chị M.

[3] Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung: Cháu Nguyễn Thị H sinh ngày 17/5/1998, cháu Nguyễn Văn K sinh ngày 23/6/2000. Cháu H đã lập gia đình riêng. Cháu K khỏe mạnh, đang học đại học. Các cháu đều đã trưởng thành nên ở với ai do các cháu quyết định. HĐXX không xét.

[4] Về tài sản chung: Các đương sự trình bày vợ chồng không có tài sản chung. Anh C không yêu cầu Tòa án giải quyết phần tài sản và công sức đóng góp.

[5] Về tài sản và công sức đóng góp: Chị M trình bày trong thời gian sống trên thửa đất 532 tờ bản đồ số 9 Bản đồ địa chính xã D tại địa chỉ xóm 5, xã D, huyện T của bà Lê Thị T, nguồn gốc đất là của bà Hà Thị N, chị có xây 01 chuồng gà trị giá 5.000.000đ, mua đất lấp 03 cái ao với số tiền 24.000.000đ, có công chăm sóc bà N (bà ngoại) và bà T (mẹ chồng) ... Chị đề nghị Tòa án xem xét giải quyết buộc anh C và bà T phải trả lại phần tài sản và công sức đóng góp cho chị bằng một suất đất ở hoặc bằng tiền mặt là 600.000.000đ (Sáu trăm triệu đồng).

Ngày 13/10/2020 , Tòa án đã ra thông báo nộp tiền tạm ứng án phí đối với yêu cầu về phần tài sản của chị M. Cùng ngày chị M đã nhận thông báo nộp tiền tạm ứng án phí. Tòa án đã giải thích nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí cho chị M biết nhưng chị vẫn không nộp tiền tạm ứng án phí. Do đó, để đảm bảo quyền lợi cho đương sự, HĐXX tách phần tài sản theo yêu cầu của chị M không xem xét giải quyết trong vụ án này, dành cho chị M quyền khởi kiện vụ án khác.

[6] Về án phí: Anh C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, các Điều 271, 273, 278, 280 BLTTDS; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Xử cho anh Nguyễn Văn C được ly hôn chị Lê Thị M

2. Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung: Cháu Nguyễn Thị H sinh ngày 17/5/1998, cháu Nguyễn Văn K sinh ngày 23/6/2000. Các cháu đều đã trưởng thành, ở với ai do các cháu quyết định.

3. Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về tài sản và công sức đóng góp: Dành cho chị M quyền khởi kiện vụ án yêu cầu giải quyết về tài sản và trích công sức đóng góp.

5. Về án phí: Anh C phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm ly hôn nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ tại biên lai số: AA/2018/0004183 ngày 02/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Triệu Sơn. Anh C đã nộp đủ án phí.

Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Viện kiểm sát cùng cấp, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị án sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

243
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 01/2021/HNGĐ-ST ngày 13/01/2021 về hôn nhân và gia đình

Số hiệu:01/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Triệu Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về