Bản án 01/2021/DS-ST ngày 13/01/2021 về tranh chấp nợ hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ VĨNH CHÂU, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 01/2021/DS-ST NGÀY 13/01/2021 VỀ TRANH CHẤP NỢ HỤI

Trong ngày 13 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 51/2020/TLST-DS, ngày 23 tháng 4 năm 2020 về “Tranh chấp nợ hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2020/QĐXXST-DS ngày 25 tháng 11 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 28/2020/QĐST-DS ngày 18 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị Th, sinh năm 1971 (Có mặt):

Địa chỉ: Số nhà 60 ấp N, xã L, thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng.

* Bị đơn:

- Bà Võ Thị D, sinh năm 1975 (Có đơn xin xét xử vắng mặt):

- Ông Ngô Văn A, sinh năm 1973 (Vắng mặt).

Cùng địa chỉ: Số nhà 11 ấp N, xã L, thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn Võ Thị D : Bà Nguyễn Chúc L, sinh năm 1980; là Luật sư văn phòng luật sư L N – thuộc đoàn Luật sư tỉnh Bạc Liêu (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

Địa chỉ: Số nhà 01 Tr, Khóm C, Phường B, thành phố Bạc Liệu, tỉnh Bạc Liêu.

 * Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Thành Ng, sinh năm 1971.

Địa chỉ: Số nhà 60 ấp Năm Căn, xã Lai Hòa, thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng.

Người đại diện theo ủy quyền của Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Thành Ng: Bà Huỳnh Thị Th, sinh năm 1971 (Có mặt):

Địa chỉ: Số nhà 60 ấp N, xã L, thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 13/3/2020, quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Huỳnh Thị Th trình bày:

Bà Huỳnh Thị Th làm đầu thảo hụi, trong đó có vợ chồng bà Võ Thị D và ông Ngô Văn A tham gia chơi hụi do bà Th làm đầu thảo, các dây hụi cụ thể như sau:

Dây hụi thứ 01: Mở ngày 15/5/2017 (al), hụi mỗi tháng xổ 1 lần, 3.000.000 đồng/tháng, có 36 chân, vợ chồng bà D – ông A tham gia 2 chân, đã hốt hết 2 chân. Sau khi hốt hụi vợ chồng bà D – ông A đóng hụi chết nửa chừng rồi ngưng, còn nợ lại 2 kỳ hụi chết x 3.000.000 đồng x 2 chân = 12.000.000 đồng.

Dây hụi thứ 02: Mở ngày 05/10/2017 (al), hụi mỗi tháng xổ 1 lần, 1.000.000 đồng/tháng, có 48 chân, vợ chồng bà D – ông A tham gia 2 chân, đã hốt hết 2 chân. Sau khi hốt hụi vợ chồng bà D – ông A đóng hụi chết nửa chừng rồi ngưng, còn nợ lại 10 kỳ hụi chết x 1.000.000 đồng x 2 chân = 20.000.000 đồng.

Dây hụi thứ 03: Mở ngày 10/9/2017 (al), hụi mỗi tháng xổ 1 lần, 3.000.000 đồng/tháng, có 36 chân, vợ chồng bà D – ông A tham gia 2 chân, đã hốt hết 2 chân. Sau khi hốt hụi vợ chồng bà D – ông A đóng hụi chết nửa chừng rồi ngưng, còn nợ lại 7 kỳ hụi chết x 3.000.000 đồng x 2 chân = 42.000.000 đồng.

Dây hụi thứ 04: Mở ngày 10/11/2017 (al), hụi mỗi tháng xổ 1 lần, 2.000.000 đồng/tháng, có 36 chân, vợ chồng bà D – ông A tham gia 3 chân, đã hốt hết 3 chân. Sau khi hốt hụi vợ chồng bà D – ông A đóng hụi chết nửa chừng rồi ngưng, còn nợ lại 9 kỳ hụi chết x 2.000.000 đồng x 3 chân = 54.000.000 đồng.

Dây hụi thứ 05: Mở ngày 25/01/2018 (al), hụi mỗi tháng xổ 1 lần, 3.000.000 đồng/tháng, có 39 chân, vợ chồng bà D – ông A tham gia 2 chân, đã hốt hết 2 chân. Sau khi hốt hụi vợ chồng bà D – ông A đóng hụi chết nửa chừng rồi ngưng, còn nợ lại 14 kỳ hụi chết x 3.000.000 đồng x 2 chân = 84.000.000 đồng.

Dây hụi thứ 06: Mở ngày 10/02/2018 (al), hụi mười (10) ngày xổ 1 lần, 500.000 đồng/lần, có 85 chân, vợ chồng bà D – ông A tham gia 2 chân, đã hốt hết 2 chân. Sau khi hốt hụi vợ chồng bà D – ông A đóng hụi chết nửa chừng rồi ngưng, còn nợ lại 15 kỳ hụi chết x 500.000 đồng x 2 chân = 15.000.000 đồng.

Dây hụi thứ 07: Mở ngày 20/5/2018 (al), hụi mỗi tháng xổ 1 lần, 3.000.000 đồng/tháng, có 36 chân, vợ chồng bà D – ông A tham gia 3 chân, đã hốt 2 chân còn lại 1 chân. Sau khi hốt hụi vợ chồng bà D – ông A đóng hụi chết nửa chừng rồi ngưng, còn nợ lại 27 kỳ hụi chết x 3.000.000 đồng x 2 chân = 162.000.000 đồng.

Dây hụi thứ 08: Mở ngày 30/6/2018 (al), hụi mỗi tháng xổ 1 lần, 3.000.000 đồng/tháng, có 41 chân, vợ chồng bà D – ông A tham gia 3 chân, đã hốt hết 3 chân. Sau khi hốt hụi vợ chồng bà D – ông A đóng hụi chết nửa chừng rồi ngưng, còn nợ lại 21 kỳ hụi chết x 3.000.000 đồng x 3 chân = 189.000.000 đồng.

Dây hụi thứ 09: Mở ngày 20/8/2018 (al), hụi mỗi tháng xổ 1 lần, 3.000.000 đồng/tháng, có 38 chân, vợ chồng bà D – ông A tham gia 3 chân, đã hốt 2 chân còn lại 1 chân. Sau khi hốt hụi vợ chồng bà D – ông A đóng hụi chết nửa chừng rồi ngưng, còn nợ lại 22 kỳ hụi chết x 3.000.000 đồng x 2 chân = 132.000.000 đồng.

Dây hụi thứ 10: Mở ngày 05/01/2019 (al), hụi mỗi tháng xổ 1 lần, 5.000.000 đồng/tháng, có 33 chân, vợ chồng bà D – ông A tham gia 2 chân, đã hốt 1 chân còn lại 1 chân. Sau khi hốt hụi vợ chồng bà D – ông A đóng hụi chết được 5 kỳ, còn nợ lại 27 kỳ hụi chết x 5.000.000 đồng x 1 chân = 135.000.000 đồng.

Dây hụi thứ 11: Mở ngày 15/5/2019 (al), hụi mỗi tháng xổ 1 lần, 3.000.000 đồng/tháng, có 34 chân, vợ chồng bà D – ông A tham gia 3 chân, đã hốt 2 chân còn lại 1 chân. Sau khi hốt hụi vợ chồng bà D – ông A đóng hụi chết nửa chừng rồi ngưng, còn nợ lại 24 kỳ hụi chết x 3.000.000 đồng x 2 chân = 144.000.000 đồng.

Dây hụi thứ 12: Mở ngày 10/10/2019 (al), hụi mười (10) ngày xổ 1 lần, 1.000.000 đồng/lần, có 45 chân, vợ chồng bà D – ông A tham gia 2 chân, đã hốt hết 2 chân. Sau khi hốt hụi vợ chồng bà D – ông A đóng hụi chết nửa chừng rồi ngưng, còn nợ lại 33 kỳ hụi chết x 1.000.000 đồng x 2 chân = 66.000.000 đồng.

Dây hụi thứ 13: Mở ngày 15/12/2019 (al), hụi mỗi tháng xổ 1 lần, 3.000.000 đồng/tháng, có 34 chân, vợ chồng bà D – ông A tham gia 2 chân, đã hốt 1 chân còn lại 1 chân. Sau khi hốt hụi vợ chồng bà D – ông A đóng hụi chết nửa chừng rồi ngưng, còn nợ lại 32 kỳ hụi chết x 3.000.000 đồng x 1 chân = 96.000.000 đồng.

* Ngoài ra, bà D có làm đầu thảo hụi, ngày 30/8/2019 (al) bà D mở dây hụi 3.000.000 đồng, bà Th có tham gia chơi 2 chân hụi, đóng hụi được 5 kỳ thì dừng hụi nhưng bà D cũng không trả tiền đóng hụi lại cho bà Th  với số tiền là 30.000.000 đồng.

Tổng cộng vợ chồng bà D – ông A còn nợ tiền hụi của bà Th là 1.181.000.000đ (một tỷ một trăm tám mươi mốt triệu đồng). Tuy nhiên, trong các dây hụi bà D tham gia thì bà D còn lại 05 chân hụi sống, cụ thể là:

1. Dây hụi ngày 15/5/2019 (al), hụi 3.000.000 đồng/tháng, bà D – ông A còn 1 chân hụi sống đã đóng được 10 kỳ là 30.000.000 đồng.

2. Dây hụi ngày 20/5/2018 (al), hụi mỗi tháng xổ 1 lần, hụi 3.000.000 đồng/tháng, bà D – ông A còn 1 chân hụi sống đã đóng được 9 kỳ là 27.000.000 đồng.

3. Dây hụi ngày 20/8/2018 (al), hụi mỗi tháng xổ 1 lần, hụi 3.000.000 đồng/tháng, bà D – ông A còn 1 chân hụi sống đã đóng được 16 kỳ là 48.000.000 đồng.

4. Dây hụi ngày 05/01/2019 (al), hụi 5.000.000 đồng/tháng, bà D – ông A còn 1 chân hụi sống đã đóng được 6 kỳ là 30.000.000 đồng.

5. Dây hụi ngày 15/12/2019 (al), hụi 3.000.000 đồng/tháng, bà D – ông A còn 1 chân hụi sống đã đóng được 2 kỳ là 6.000.000 đồng.

Tổng cộng 5 chân hụi sống của bà D là 141.000.000đ (một trăm bốn mươi mốt triệu đồng). Ngoài ra, bà Th đồng ý trừ cho bà D số tiền bà D cho rằng đã đóng lãi cho bà Th là 37.000.000đ và số tiền 20.000.000 đồng bà D mượn của em để trả cho bà Th , sau khi đối trừ các dây hụi chết thì bà D còn nợ của bà Th là 983.000.000đ (chín trăm tám mươi ba triệu đồng).

Nay, bà Huỳnh Thị Th yêu cầu Tòa án giải quyết, buộc vợ chồng bà D – ông A phải thanh toán cho bà Th toàn bộ số nợ hụi còn thiếu là 983.000.000đ (chín trăm tám mươi ba triệu đồng) Tài liệu, chứng cứ mà nguyên đơn giao nộp là: Bản sao Giấy chứng minh nhân dân và Sổ hộ khẩu của bà Huỳnh Thị Th ; Đơn yêu cầu hòa giải gửi ban nhân dân ấp N, xã L ; Bản pho to biên bản hòa giải cơ sở của ban nhân dân ấp N, xã L vào ngày 10/3/2020; 1/2 tờ giấy A4 pho to có ghi nội dung “Vợ A lấy 40000000; vợ A 30/8 1.00000000; Vợ A có lấy 1.40000000” ; 17 tờ giấy pho to từ sổ hụi của bà Th.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn Võ Thị D là bà Nguyễn Chúc L có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa, có trình bày tại phiên hòa giải ngày 23/11/2020, luận cứ ngày 11/01/2021 gởi cho Hội đồng xét xử như sau: Đúng là bà Võ Thị D có tham gia chơi hụi do bà Th làm đầu thảo là 13 dây hụi vào các ngày tháng năm cụ thể do bà Th trình ngày và số chân hụi, các dây hụi sống chết như bà Th trình bày, nhưng không đồng ý số tiền nợ như bà Th trình bày, cụ thể như sau:

Dây hụi thứ 01: Mở ngày 15/5/2017 (al), hụi mỗi tháng xổ 1 lần, 3.000.000 đồng/tháng, có 36 chân, bà D tham gia 2 chân, đã hốt hết 2. Còn nợ lại 2 kỳ hụi chết x 3.000.000 đồng x 2 chân = 12.000.000 đồng đúng như bà Th trình bày.

Dây hụi thứ 02: Mở ngày 05/10/2017 (al), hụi mỗi tháng xổ 1 lần, 1.000.000 đồng/tháng, có 48 chân, bà D tham gia 2 chân, đã hốt hết 2 chân. Còn nợ lại 10 kỳ hụi chết, bà Th yêu cầu trả 10 kỳ hụi chết x 1.000.000 đồng x 2 chân = 20.000.000 đồng. Tuy nhiên, hụi này chưa mãn nên bà D chỉ đồng ý trả 8 kỳ hụi chết là 16.000.000 đồng, còn 2 kỳ chưa đến hạn gom hụi.

Dây hụi thứ 03: Mở ngày 10/9/2017 (al), hụi mỗi tháng xổ 1 lần, 3.000.000 đồng/tháng, có 36 chân, bà D tham gia 2 chân, đã hốt hết 2 chân. Còn nợ lại 7 kỳ hụi chết, bà Th yêu cầu trả 7 kỳ hụi chết x 3.000.000 đồng x 2 chân = 42.000.000 đồng. Hụi này đã mãn và bà D thừa nhận còn 42.000.000 đồng đúng như bà Th trình bày.

Dây hụi thứ 04: Mở ngày 10/11/2017 (al), hụi mỗi tháng xổ 1 lần, 2.000.000 đồng/tháng, có 36 chân, bà D tham gia 3 chân, đã hốt hết 3 chân. Còn nợ lại 9 kỳ hụi chết, bà Th yêu cầu trả 9 kỳ hụi chết x 2.000.000 đồng x 3 chân = 54.000.000 đồng. Tuy nhiên, hụi này chưa mãn nên bà D chỉ đồng ý trả 6 kỳ hụi chết là 36.000.000 đồng, còn lại 3 kỳ chưa đến ngày gom hụi.

Dây hụi thứ 05: Mở ngày 25/01/2018 (al), hụi mỗi tháng xổ 1 lần, 3.000.000 đồng/tháng, có 39 chân, bà D tham gia 2 chân, đã hốt hết 2 chân, còn lại 14 kỳ hụi chết, bà Th yêu cầu trả 14 kỳ hụi chết x 3.000.000 đồng x 2 chân = 84.000.000 đồng. Hụi này đến ngày 25/3/2021 mới mãn nên bà D chỉ đồng ý trả 5 kỳ hụi chết là 30.000.000 đồng, còn lại 9 kỳ còn lại chưa đến ngày gom hụi.

Dây hụi thứ 06: Mở ngày 10/02/2018 (al), hụi mười (10) ngày xổ 1 lần, 500.000 đồng/lần, có 85 chân, bà D tham gia 2 chân, đã hốt hết 2 chân. Dây hụi này bà D nợ 15 kỳ hụi chết x 500.000 đồng x 2 chân = 15.000.000 đồng đúng như bà Th trình bày.

Dây hụi thứ 07: Mở ngày 20/5/2018 (al), hụi mỗi tháng xổ 1 lần, 3.000.000 đồng/tháng, có 36 chân, bà D tham gia 3 chân, đã hốt 2 chân còn lại 1 chân, đóng 9 kỳ cả hụi chết và hụi sống, còn lại 27 kỳ hụi, bà Th yêu cầu trả 27 kỳ hụi chết x 3.000.000 đồng x 2 chân = 162.000.000 đồng. Tuy nhiên dây hụi này đến ngày 20/3/2021 mới mãn, nên bà D chỉ đồng ý trả là 17 kỳ hụi chết là 102.000.000 đồng, còn 10 kỳ còn lại chưa tới ngày gom hụi.

Dây hụi thứ 08: Mở ngày 30/6/2018 (al), hụi mỗi tháng xổ 1 lần, 3.000.000 đồng/tháng, có 41 chân, bà D tham gia 3 chân, đã hốt hết 3 chân. Còn nợ lại 21 kỳ hụi chết, bà Th yêu cầu trả 21 kỳ hụi chết x 3.000.000 đồng x 3 chân = 189.000.000 đồng. Tuy nhiên, hụi đến ngày 30/9/2021 mới mãn nên bà D chỉ đồng ý trả 5 kỳ hụi chết là 45.000.000 đồng, còn lại 16 kỳ chưa đến ngày gom hụi.

Dây hụi thứ 09: Mở ngày 20/8/2018 (al), hụi mỗi tháng xổ 1 lần, 3.000.000 đồng/tháng, có 38 chân, bà D tham gia 3 chân, đã hốt 2 chân còn lại 1 chân. Đã đóng 16 kỳ cả hụi chết và hụi sống, còn lại 22 kỳ hụi, bà Th yêu cầu trả 22 kỳ hụi chết là 132.000.000 đồng. Tuy nhiên dây hụi đến ngày 20/8/2021 mới mãn hụi nên bà D chỉ đồng ý trả 7 kỳ hụi chết là 42.000.000 đồng, còn 15 còn lại chưa tới ngày gom hụi.

Dây hụi thứ 10: Mở ngày 05/01/2019 (al), hụi mỗi tháng xổ 1 lần, 5.000.000 đồng/tháng, có 33 chân, bà D tham gia 2 chân, đã hốt 1 chân còn lại 1 chân. Còn nợ lại 27 kỳ hụi chết, bà Th yêu cầu trả 27 kỳ hụi chết x 5.000.000 đồng x 1 chân = 135.000.000 đồng. Tuy nhiên, hụi này đến ngày 05/8/2021 mãn hụi nên bà D chỉ đồng ý trả 12 kỳ hụi chết là 60.000.000 đồng, còn lại 15 kỳ chưa đến hạn gom hụi.

Dây hụi thứ 11: Mở ngày 15/5/2019 (al), hụi mỗi tháng xổ 1 lần, 3.000.000 đồng/tháng, có 34 chân, bà D tham gia 3 chân, đã hốt 2 chân còn lại 1 chân. Hụi này còn 24 kỳ mới mãn, bà Th yêu cầu 24 kỳ hụi chết x 3.000.000 đồng x 2 chân = 144.000.000 đồng. Tuy nhiên, hụi này bà D thừa nhận trả 2 kỳ hụi chết là 24.000.000 đồng, còn lại 20 kỳ chưa đến ngày gom hụi.

Dây hụi thứ 12: Mở ngày 10/10/2019 (al), hụi mười (10) ngày xổ 1 lần, 1.000.000 đồng/lần, có 45 chân, bà D tham gia 2 chân, đã hốt hết 2 chân. Còn nợ lại 33 kỳ hụi chết, bà Th yêu cầu trả 33 kỳ hụi chết x 1.000.000 đồng x 2 chân = 66.000.000 đồng. Tuy nhiên, hụi này chưa mãn, bà D chỉ đồng ý trả 19 kỳ là 38.000.000 đồng, còn lại 14 kỳ chưa đến ngày gom hụi.

Dây hụi thứ 13: Mở ngày 15/12/2019 (al), hụi mỗi tháng xổ 1 lần, 3.000.000 đồng/tháng, có 34 chân, bà D tham gia 2 chân, đã hốt 1 chân còn lại 1 chân. Hụi này còn 32 kỳ mới mãn, bà Th yêu cầu 32 kỳ hụi chết x 3.000.000 đồng x 1 chân = 96.000.000 đồng. Tuy nhiên, hụi này bà D thừa nhận trả 6 kỳ hụi chết là 18.000.000 đồng, còn lại 26 kỳ chưa đến hạn gom hụi.

Trong 13 dây hụi nêu trên, bà D còn 5 chân hụi sống với số tiền 141.000.000đ (một trăm bốn mươi mốt triệu đồng) đúng như bà Th trình bày.

* Ngoài ra, bà D có làm đầu thảo hụi, ngày 30/8/2019 (al) bà D mở dây hụi 3.000.000 đồng, bà Th có tham gia chơi 2 chân hụi, đóng hụi được 5 kỳ thì dừng hụi nên bà D thừa nhận nợ của bà Th là 30.000.000 đồng đúng như bà Th trình bày.

Các kỳ hụi còn lại, bà L thừa nhận bà Th trình bày là đúng, nhưng do hiện nay, bà Th đã đình hụi (bà Th đình hụi từ ngày 17/8/2020) nên bà D chỉ đồng ý trả cho bà Th các chân hụi chết như trình bày ở trên, sau khi khấu trừ 5 chân hụi sống và số tiền bà D làm chủ hụi nợ 30.000.000 đồng, số tiền bà D đã đóng 57.000.000 đồng thì bà D đồng ý trả cho bà Th 342.000.0000 đồng, mỗi tháng trả 3.000.000 đồng cho đến khi dứt nợ. Phần nợ hụi còn lại chưa đến kỳ gom hụi vì bà Th đình hụi nên khi nào bà Th mở hụi lại thì bà D sẽ đóng đầy đủ theo lịch gom hụi cùng với mọi người tham gia chơi hụi.

Bị đơn bà Võ Thị D có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa nhưng có trình bày tại các Biên bản lấy lời khai ngày 21/5/2020, ngày 10/6/2020 và tại phiên hòa giải ngày 23/11/2020:

Bà D có tham gia chơi hụi đúng như bà Th và Luật sư Nguyễn Chúc L trình bày và bà D thống nhất với lời trình bày của Luật sư L, là bà chỉ còn nợ của bà Th là 342.000.000 đồng và chỉ đồng ý trả số tiền này cho bà Th mỗi tháng 3.000.000đ (ba triệu đồng) cho đến khi hết nợ. Phần nợ hụi còn lại chưa đến kỳ gom hụi vì bà Th đình hụi nên khi nào bà Th mở hụi lại thì bà D sẽ đóng đầy đủ theo lịch gom hụi cùng với mọi người tham gia chơi hụi. Bà D cũng trình bày, quá trình chơi hụi với bà Th, chồng của bà D là ông Ngô Văn A không biết cũng không tham gia nhưng tiền hốt hụi bà D sử dụng để nuôi Tôm và chi xài chung cho gia đình.

Tài liệu, chứng cứ mà bị đơn Võ Thị D giao nộp là: Bản pho to Giấy chứng minh nhân dân của bà Võ Thị D ; Bản pho to Giấy chứng minh nhân dân của ông Ngô Văn A ; 1/2 tờ giấy A4 pho to có ghi việc hốt hụi (có chữ ghi thêm của bà D về nội dung “2 dây hụi bà Võ Thị D hốt mà bà Huỳnh Thị Th không có chung”); 1/2 tờ giấy A4 pho to có ghi việc hốt hụi (có chữ ghi thêm của bà D về nội dung “1 chứng minh là có đóng tiền lời”; 1/2 tờ giấy A4 pho to có ghi việc hốt hụi (có chữ ghi thêm của bà D về nội dung “2 chứng minh là có đóng tiền lời”); 1/2 tờ giấy A4 pho to có ghi việc hốt hụi, do bà Huỳnh Thị Th ghi nội dung: “Vợ A hốt hụi 3 triệu 25/07/2019- lần 2; … trừ ra lời là 23000000 còn lại 51150000”; 01 tờ giấy pho to ghi “Vợ a hốt hụi 3 triệu 25/7/2019 lần 2…”.

- Đối với bị đơn ông Ngô Văn A vắng mặt tại Tòa án và không có ý kiến hay trình bày gì gởi cho Tòa án.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa nêu quan điểm: Qua thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Thư ký phiên tòa cũng như Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, chứng cứ được thu thập đầy đủ đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho các đương sự. Các đương sự đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật, tuy nhiên bị đơn Ngô Văn A không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật. Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Hội đồng xét xử đã xác định đúng quan hệ tranh chấp. Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc các bị đơn bà Võ Thị D và ông Ngô Văn A trách nhiệm liên đới trả nguyên đơn số tiền là 983.000.000 đồng, quyết định về nghĩa vụ chịu án phí đối với đương sự theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Bà Huỳnh Thị Th khởi kiện, yêu cầu bà Võ Thị D và ông Ngô Văn A trả tiền nợ hụi. Đây là giao dịch dân sự được quy định tại Điều 471 Bộ luật dân sự năm 2015. Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh Châu theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bị đơn Võ Thị D và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà D là Luật sư Nguyễn Chúc L có đơn xin xét xử vắng mặt, riêng bị đơn Ngô Văn A đã được triệu tập hợp lệ hai lần tham gia phiên tòa, đều vắng mặt không có lý do nên phải chịu hậu quả pháp lý về việc vắng mặt của mình. Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật và Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự để xét xử vụ án vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung giải quyết:

[2.1] Đối với thỏa thuận hụi: Xét khi giao kết hợp đồng hụi, bà Th và bà D là những người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, giao kết hợp đồng dựa trên cơ sở tự nguyện của hai bên được quy định tại các Điều 117 và 471 của Bộ luật dân sự năm 2015.

[2.2] Đối với yêu cầu của nguyên đơn về đòi tiền hụi: Trong quá trình giải quyết vụ án, tại phiên hòa giải ngày 23/11/2020, các đương sự đều thống nhất số dây hụi, chân hụi và tiền góp mỗi chân, các chân hụi chết, hụi sống của bà D từ khi chơi hụi cho đến khi mãn hụi. Cụ thể, các dây hụi mà bà Th mở trong đó bà D tham gia đến thời điểm hiện nay thì có 3 dây hụi đã mãn và 10 dây hụi chưa mãn, bà D đã ngưng đóng hụi từ tháng 01 năm 2020 (âm lịch). Dây hụi bà D làm chủ hụi, bà Th đã đóng hụi và còn hụi sống 30.000.000 đồng thì bà D ngừng hụi, chưa trả hụi cho bà Th. Như vây, bà D đã có lỗi khi đơn phương chấm dứt hợp đồng cụ thể là bà D không tiếp tục góp hụi chết cho bà Th và không trả hụi sống cho bà Th đối với dây hụi bà D làm chủ. Điều này đã gây thiệt thòi cho quyền lợi của bà Th .

[2.3] Đối với yêu cầu của bị đơn Võ Thị D về việc chỉ trả các dây hụi đến ngày bà Th đình hụi: Đối với 03 dây hụi đã mãn (theo thứ tự dây hụi nêu ở phần nội dung vụ án) là dây hụi 01, dây hụi 03 và dây hụi 06, bà D thống nhất trả hụi chết cho bà Th. Riêng 10 dây hụi chưa mãn và bà D cho rằng bà Th đã đình hụi vào ngày 17/8/2020, nên bà D chỉ đồng ý trả các chân hụi chết cho bà Th đến thời điểm bà Th đình hụi, cụ thể: Dây hụi thứ 02 nợ 8 kỳ là 16.000.000 đồng; dây hụi thứ 04 nợ 6 kỳ là 36.000.000 đồng; dây hụi thứ 05 nợ 5 kỳ 30.000.000 đồng; dây hụi thứ 07 nợ 17 kỳ 102.000.000 đồng; dây hụi thứ 08 nợ 5 kỳ 45.000.000 đồng; dây hụi thứ 09 nợ 7 kỳ là 42.000.000 đồng; dây hụi thứ 10 nợ 12 kỳ là 60.000.000 đồng; dây hụi thứ 11 nợ 2 kỳ là 24.000.000 đồng; dây hụi thứ 12 nợ 19 kỳ là 38.000.000 đồng và dây hụi 13 nợ 6 kỳ là 18.000.000 đồng.

Đối với các chân hụi chưa mãn, chưa đến kỳ gom hụi cụ thể là: Dây hụi thứ 02 còn 2 kỳ hụi chết; dây hụi thứ 04 nợ 3 kỳ hụi chết; dây hụi thứ 05 nợ 9 kỳ hụi chết; dây hụi thứ 07 nợ 10 kỳ hụi chết; dây hụi thứ 08 nợ 16 kỳ hụi chết; dây hụi thứ 09 nợ 15 kỳ hụi chết; dây hụi thứ 10 nợ 15 kỳ hụi chết; dây hụi thứ 11 nợ 20 kỳ hụi chết; dây hụi thứ 12 nợ 14 kỳ hụi chết và dây hụi 13 nợ 26 kỳ hụi chết. Những kỳ hụi chết này, bà Th chưa đến kỳ hạn thu hụi nên bà D không đồng ý trả theo yêu cầu của bà Th .

Hội đồng xét xử xét thấy: Việc giao kết hợp đồng là dựa trên sự tự nguyện của hai bên, mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội, nên công nhận đây là hợp đồng góp hụi hợp pháp được pháp luật điều chỉnh tại các điều 471 của Bộ luật dân sự năm 2015 và Điều 14, 20, 30 của Nghị định 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường; bà D là thành viên góp hụi, bà D phải có nghĩa vụ trả hụi cho chủ hụi tại mỗi kỳ góp hụi mà hai bên đã thỏa thuận. Từ tháng 01/2020 bà D đã không đóng hụi chết đúng quy định như vậy bà D đã vi phạm quy định về nghĩa vụ của thành viên. Bà D cho rằng bà chỉ vi phạm các chân hụi đến thời hạn góp hụi, còn các chân hụi chưa mãn thì bà không vi phạm, khi nào bà Th mở hụi bà D sẽ tiếp tục góp hụi. Hội đồng xét xử xét thấy, đây là ý chí chủ quan của bà D. Tại Điều 282 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định “Việc chậm thực hiện nghĩa vụ theo từng kỳ cũng bị coi là chậm thực hiện nghĩa vụ”. Cùng đó, pháp luật cũng quy định trách nhiệm của chủ hụi tại các Điều 15, 27, 29 của Nghị định 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ “về họ, hụi, biêu, phường” và Điều 18, 23 của Nghị định 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ “về họ, hụi, biêu, phường” quy định rõ trách nhiệm và nghĩa vụ của chủ hụi thì bà Th phải chịu hậu quả đối với việc vi phạm của mình. Do đó việc bà D yêu cầu chỉ thanh toán các chân hụi chết đến ngày 17/8/2020, còn các chân hụi chết còn lại, hụi chưa mãn, bà D không đồng ý thanh toán là không có cơ sở chấp nhận.

[2.4] Tại phiên tòa, bà Th thay đổi một phần nội dung yêu cầu khởi kiện, là bà Th đồng ý trừ số tiền bà D đã đóng là 57.000.000 đồng và trừ 15.000.000 đồng do dây hụi thứ 13 bà Th đã tính nhầm. Đây là ý chí tự nguyện của bà Th, không vượt quá yêu cầu khởi kiện nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[2.5] Đối với khoản nợ nêu trên là 983.000.000 đồng, mặc dù bà D trình bày là tự bà giao dịch, ông Ngô Văn A là chồng bà không có tham gia cũng không biết được việc này. Tuy nhiên bà D khẳng định việc chơi hụi lấy lãi cũng mục đích để lấy vốn nuôi tôm và dùng sinh hoạt cho gia đình. Hội đồng xét xử xét thấy, khoản nợ nêu trên bà D nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình và ông A là chồng của bà D nên phải có nghĩa vụ liên đới cùng bà D trả khoản nợ nêu trên cho bà Th .

[2.6] Xét ý kiến của bị đơn Võ Thị D và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn là luật sự Nguyễn Chúc L xin bà Th gia hạn, mỗi tháng cho bà D trả 3.000.000 đồng cho đến khi dứt nợ. Hội đồng xét xử xét thấy, tại phiên tòa hôm nay, bà Th không đồng ý nên không thể xem xét cho bà Võ Thị D .

Từ các căn cứ nêu trên căn cứ vào Điều 471 của Bộ luật dân sự 2015 và các Điều 13, 15, 27, 29, 20 và 30 của Nghị định 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường; Điều 16, 18, 23 và điều 24 Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường thì yêu cầu của bà Th về việc đòi bà D – ông A thanh toán số tiền nợ hụi là 983.000.000 đồng Hội đồng là có căn cứ, nên xét xử chấp nhận.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và bà Th có đơn yêu cầu thi hành án, bà D và ông A phải trả lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.

[3] Về án phí sơ thẩm: Yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận, bà D và ông A phải chịu toàn bộ án phí có giá ngạch tương ứng với nghĩa vụ thanh toán quy định tại khoản 1 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Khóa XIV. Cụ thể bà D và ông A phải liên đới chịu là 41.490.000 đồng.

[4] Toàn bộ quan điểm, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Vĩnh Châu là có căn cứ pháp lý và cơ sở thực tiễn như đã nhận định ở trên, Hội đồng xét xử cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đã nêu.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 2 Điều 92, khoản 1 và khoản 2 Điều 143, khoản 1 Điều 144, khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 244, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự:

Căn cứ vào Điều 282, Điều 288, Điều 357, Điều 463, Điều 466, khoản 2 Điều 468, khoản 1 Điều 470, Điều 471 của Bộ luật dân sự năm 2015:

Căn cứ vào các Điều 13, 15, 27, 29, 20 và 30 của Nghị định 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường.

Căn cứ vào các Điều 15, 16, 17, 18, 23, 24 và 27 Nghị định số 19/2019/NĐ- CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường.

Căn cứ vào Điều 27, Điều 37 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Khóa XIV.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Huỳnh Thị Th đối với các bị đơn bà Võ Thị D và ông Ngô Văn A, về việc “Tranh chấp nợ hụi”. Buộc bà Võ Thị D và ông Ngô Văn A có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Th số tiền nợ hụi là 983.000.000 đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và bà Th có đơn yêu cầu thi hành án, bà Võ Thị D và ông Ngô Văn A phải trả lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Võ Thị D và ông Ngô Văn A phải liên đới chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là 41.490.000 đồng.

Bà Huỳnh Thị Th không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, được nhận lại tiền tạm ứng án phí đã nộp là 21.825.000đ (hai mươi mốt triệu tám trăm hai mươi lăm đồng) theo Biên lai thu số 0003800 ngày 23/4/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Vĩnh Châu.

3. Nguyên đơn có quyền kháng cáo đối với bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án; bà Võ Thị D và ông Ngô Văn A có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết hợp lệ, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

299
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2021/DS-ST ngày 13/01/2021 về tranh chấp nợ hụi

Số hiệu:01/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Vĩnh Châu - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 13/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về