Bản án 01/2020/HS-ST ngày 22/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SỐP CỘP, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 01/2020/HS-ST NGÀY 22/10/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 01/2020/TLST-HS ngày 02 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01 /QĐXXST-HS ngày 09/10/2020 đối với bị cáo:

Tòng Văn K, tên gọi khác: Không, sinh ngày 08 tháng 7 năm 1967, tại huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La.

Nơi cư trú: Bản C, xã N, huyện S, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng Trọt; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Tòng Văn  và bà Tòng Thị L (đều đã chết); có vợ và có 7 con; tiền án; tiền sự: không có; nhân thân; bị bắt tạm giam từ ngày 07/7/2020 cho đến nay, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 5 năm 2020 Tòng Văn K đi từ nhà ở bản C, xã N đến bản Lạnh bánh, xã Nậm Lạnh, huyện Sốp Cộp, mua được 50 viên nén màu hồng của một người không quen biết với số tiền 1.500.000 đồng và xin được một cục thuốc phiện mang về cất giấu trong nhà, Kiến đã sử dụng hết 49 viên còn lại 01 viên và 01 cục thuốc phiện để làm thuốc chữa bệnh cho gia súc.

Căn cứ lời khai nhận của Tòng Văn C, sinh năm 1973, cư trú tại bản D, xã Dồm Cang, huyện Sốp Cộp và các tài tiệu chứng cứ khác. Ngày 07/7/2020 cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sốp Cộp đã ra lệnh khám xét khẩn cấp tại nhà ở của Tòng Văn K, đã phát hiện và lập biên bản thu giữ vật chứng là 01 gói ni lon màu xanh bên trong chứa 01 viên nén màu hồng, nghi là ma túy tổng hợp, 01 gói ni lon màu trắng bên trong chứa 01 cục nhựa màu nâu đen nghi là thuốc phiện, 01 chiếc tẩu màu trắng bằng kim loại dùng để sử dụng ma túy.

Ngày 09/7/2020 Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, thành lập hội đồng mở niêm phong, cân tịnh, lấy mẫu giám định, xác định khối lượng vật chứng, tách bì, cân tịnh 01 viên nén màu hồng có khối lượng 0,10 gam, đã sử dụng hết làm mẫu giám định ký hiệu K.

Tách bì, cân tịnh toàn bộ cục nhựa màu đen nâu nghi là thuốc phiện có khối lượng 0,39 gam làm mẫu giám định ký hiệu K1.

Bản kết luận giám định số 1176 ngày 13/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu K là ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu giám định là 0,10 gam. khối lượng ma túy thu giữ là 0,10 gam; loại Methamphetamine. Mẫu gửi giám định ký hiệu K1 là ma túy, loại Thuốc phiện; khối lượng của mẫu giám định là 0,39 gam. khối lượng ma túy thu giữ là 0,39 gam; loại thuốc phiện.

Bản Cáo trạng số 77/CT-VKSSC ngày 01 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, truy tố bị cáo Tòng Văn K về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, sau khi trình bày lời luận tội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Tòng Văn K từ 15 tháng đến 20 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về vật chứng:

Tịch thu để tiêu hủy: 01(một) phong bì thư đã niêm phong; bên trong có 01 phong bì đã bóc mở cùng 02 mảnh ni lon màu trắng, 01 mảnh ni lon màu xanh. 01(một) phong bì thư của phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh Sơn La đã niêm phong bên trong gồm: 01 phong bì niêm phong gửi giám định đã bóc mở và chất bột màu hồng gửi giám định ký hiệu K= 0,07 gam Methamphetamine, và các cục nhựa màu nâu đen thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu K1= 0,23 gam thuốc phiện; 01 túi xách màu hồng; 01 chiếc tẩu kim loại màu trắng tự chế.

Tuyên trả cho bị cáo K 01(một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, vỏ bằng nhựa màu xanh, đen, số IMEI 1:358414103079464; IMEL 2:

358414103279460, có sim thuê bao 0342266065 và 0824479376, đã qua sử dụng.

Về án phí: Miễn khoản án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Về nguồn gốc ma túy; bị cáo khai mua của một người dân tộc Mông, không quen biết, không rõ địa chỉ, ngoài lời khai của bị cáo không còn căn cứ khác chứng minh, nên cơ quan điều tra Công an huyện Sốp Cộp không có căn cứ để xử lý trong vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Sốp Cộp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]Về chứng cứ xác định tội danh:

Tại phiên tòa bị cáo Tòng Văn K khai nhận tháng 5 năm 2020 đã mua được 50 viên ma túy tổng hợp với số tiền 1.500.000 đồng và xin được 01 cục thuốc phiện của một người không quen biết sau đó đã sử dụng hết 49 viên, còn lại 01 viên và 01 cục nhựa thuốc phiện. Đến ngày 07/7/2020 bị Công an huyện Sốp Cộp đọc lệnh khám xét nơi ở, đã phát hiện lập biên bản và thu giữ số vật chứng nói trên; Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với Biên bản khám xét hồi 15 giờ 40 phút ngày 07 tháng 7 năm 2020; Biên bản cân tịnh vật chứng, kết luận giám định số 1176, ngày 13/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La, vật chứng của vụ án là 0,49 gam ma túy, loại Methamphetamine và Thuốc phiện.

Từ những căn cứ nêu trên, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Tòng Văn K phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

[3] Xét về tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm chính sách độc quyền của nhà nước về quản lý các chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an trên địa bàn, bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được Tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, nhằm răn đe giáo dục bị cáo và để phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự : Không có Tình tiết giảm nhẹ: Sau khi phạm tội tại cơ quan Điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Với các căn cứ nêu trên. Viện Kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp kết luận bị cáo K phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự và đưa ra mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội là có căn cứ đúng với quy định của pháp luật.

[5] Về hình phạt bổ sung:

Ngoài hình phạt chính lẽ ra bị cáo phải bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo qui định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự; xét thấy gia đình bị cáo không có điều kiện thi hành, nên không áp dụng.

[6]Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự, điểm a, điểm c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- 01(một) phong bì thư đã niêm phong, bên trong gồm: 01 phong bì đã bóc mởniêm phong; 02 mảnh ni lon màu trắng; 01 mảnh ni lon màu xanh;

- 01(một) phong bì thư của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã niêm phong dán kín gồm: 01 phong bì niêm phong gửi giám định đã bóc mở và chất bột màu hồng mẫu gửi giám định ký hiệu K= 0,07 gam Methamphetamine, và các cục nhựa màu nâu đen thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu K1= 0,23 gam thuốc phiện, là vật cấm lưu hành cần tịch thu để tiêu hủy; 01 túi xách màu hồng bị cáo dùng để cất giấu ma túy; 01 chiếc tẩu kim loại màu trắng tự chế liên quan đến hành vi phạm tội cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, vỏ bằng nhựa màu xanh, đen, số IMEI 1:358414103079464; IMEL 2: 358414103279460, có sim thuê bao 0342266065 và 0824479376, máy đã qua sử dụng, là tài sản của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội cần tuyên trả cho bị cáo.

[7] Về án phí: Bị cáo sống ở bản, xã đặc biệt khó khăn ; Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, cần miễn khoản án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[8] Tuyên quyền kháng cáo đối với bị cáo Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1.Về Điều luật áp dụng : Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự: Tuyên bố Tòng Văn K, phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy ;

2. Về hình phạt : Xử phạt Tòng Văn K 15 (Mười lăm) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/7/2020.

3. Về hình phạt bổ sung : Không áp dụng phạt tiền đối với bị cáo.

4. Vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự, điểm a, điểm c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu để tiêu hủy: 01(một) phong bì thư đã niêm phong bên trong gồm: 01 phong bì đã bóc mở niêm phong cùng 02 mảnh ni lon màu trắng, 01 mảnh ni lon màu xanh. 01(một) phong bì thư của phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh Sơn La đã niêm phong gồm: 01(một) phong bì niêm phong gửi giám định đã bóc mở và chất bột màu hồng ký hiệu K= 0,07 gam Methamphetamine, và các cục màu đen thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu K1= 0,23 gam nhựa thuốc phiện, 01 túi xách màu hồng đã qua sử dụng, 01 chiếc tẩu kim loại màu trắng tự chế.

- Tuyên trả cho bị cáo K 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, vỏ bằng nhựa màu xanh, đen, số IMEI 1:358414103079464; IMEL 2: 358414103279460, có sim thuê bao 0342266065 và0824479376, máy đã qua sử dụng; Toàn bộ vật chứng của vụ án theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 02 tháng 10 năm 2020, giữa Chi cục thi hành án dân sự và Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La.

5. Về án phí: Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016 /UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội ; quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn khoản án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Tòng Văn K.

6. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (22/10/2020).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2020/HS-ST ngày 22/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:01/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sốp Cộp - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về