Bản án 01/2020/HSST ngày 18/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DIỄN CHÂU, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 01/2020/HSST NGÀY 18/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 142/2020/HSST, ngày 28 tháng 9 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2020/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Văn Đ, tên gọi khác: không; Sinh ngày 24/12/1994; Nơi cư trú: xóm N, xã N, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: lao động tự do; Họ và tên bố: không xác định; Họ và tên mẹ: Thái Thị Q, sinh năm 1962; Vợ: Trần Thị L, sinh năm 1994 và có 02 con; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/8/2020. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nghệ An. (có mặt).

- Người làm chứng: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1958 (vắng mặt) Trú tại: xóm Y, xã N, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 12 giờ 10 phút ngày 19/8/2020 Phạm Văn Đ gọi điện thoại cho một người đàn ông tên T (không rõ họ tên thật, địa chỉ) nói “anh có ma túy không, bán cho em 1.800.000 đồng?”, Thi trả lời: “có” và hẹn Đ đến khách sạn Xanh (khối 1, thị trấn Diễn Châu) để giao ma túy, Đ đồng ý và đi nhờ xe máy của một người đi đường đến điểm hẹn. Khi gặp nhau, Đ đưa cho T 1.800.000 đồng, còn T giao cho Đ 1 gói nilon màu trắng bên trong có chứa ma túy. Đ cầm gói ma túy bỏ vào túi quần phía trước bên trái đang mặc trên người rồi đi về đến khu vực cây xăng dầu “Sáu Hằng” thuộc xóm Q, xã N, huyện Diễn Châu thì bị đội đặc nhiệm phòng chống tội phạm số 2 thuộc Bộ tư lệnh Cảnh sát biển kiểm tra, bắt quả tang, thu giữ trong túi quần phía trước bên trái Đ 01 gói nilon màu trắng, bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng nghi là ma túy.

Tại Bản kết luận giám định số 1201/KL-PC09 (Đ2-MT) ngày 20/8/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: mẫu các hạt tinh thể màu trắng thu giữ của Phạm Văn Đ gửi tới giám định đều là ma túy (Methaphetamine): tổng khối lượng là 1,08gam

* Việc thu giữ và xử lý vật chứng:

- 01 phong bì thư bưu điện niêm phong, bên trong chứa vật chứng còn lại (sau khi lấy mẫu giám định) thu giữ của bị cáo:

- 01 Điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen đã qua sử dụng:

Toàn bộ vật chứng hiện đang được bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.

Cáo trạng số 156/CT-VKS-DC, ngày 23/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Diễn Châu đã truy tố bị cáo Phạm Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 của Bộ luật hình sự.

Luận tội tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Diễn Châu đã đánh giá tính chất, hành vi phạm tội cũng như nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Văn Đ từ 15 (mười lăm) đến 18 (mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Không áp dụng hình phạt bổ sung.

Về vật chứng: đề nghị xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận hành vi thực hiện đúng như cáo trạng truy tố, các kết luận định giá tài sản và nhất trí với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, bị cáo không tranh luận gì thêm và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng:

Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân huyện Diễn Châu đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về hoạt động “Điều tra” “Truy tố”, đồng thời đã giải thích và tạo điều kiện để bị cáo, những người tham gia tố tụng thực hiện đúng và đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2]. Về căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình đúng như cáo trạng truy tố.

2.1. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu thu thập có tại hồ sơ vụ án. Như vậy đã có căn cứ xác định: vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 19/8/2020 tại khu vực xóm Q, xã N, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, Phạm Văn Đ đã có hành vi tàng trữ 01 gói ma túy tổng hợp (dạng Methaphetamine) để sử dụng thì bị Đoàn đặc nhiệm phòng chống tội phạm ma túy số 2 – Bộ tư lệnh Cảnh sát biển phát hiện bắt quả tang; Toàn bộ số ma túy trên Đ mua của một người tên T (nhưng không rõ họ tên thật, địa chỉ) với giá 1.800.000 đồng với mục đích sử dụng dần.

Kết luận giám định số ma túy thu giữ từ bị cáo là dạng ma túy tổng hợp Methaphetamine có tổng khối lượng là 1.08 gam. Như vậy đã có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Phạm Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 của BLHS năm 2015 như truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Diễn Châu là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

2.2. Đánh giá tính chất vụ án: Xét vụ án thuộc loại tội phạm nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy mà còn là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an, ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Bị cáo là người nghiện ma túy, bất chấp sự nghiêm cấm của luật pháp để thực hiện hành vi phạm tội miễn sao có lợi và nhằm thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy của mình. Do đó cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung, bảo đảm trật tự kỷ cương xã hội.

2.3. Về việc đánh giá nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Về tình tiết tăng nặng: không có. Bị cáo không có tiền án tiền sự, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình như vậy cũng đã thể hiện phần nào sự ăn năn hối cải nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ tương ứng được quy định điều 51 Bộ luật hình sự để Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần khi quyết định hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản riêng có giá trị lớn.

Nghĩ không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Trong quá trình điều tra, bị cáo khai đã mua ma túy của một người tên T, nhưng qua xác minh không xác định được Họ tên thật và địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý.

2.4. Về xử lý vật chứng: Cần tịch thu tiêu hủy số ma túy là vật chứng không có giá trị sử dụng. Tịch thu hóa giá sung quỹ nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen đã qua sử dụng là phương tiện bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội .

2.5. Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Văn Đ 15 (mười lăm) tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 19/8/2020.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư bên trong có chứa vật chứng vụ án. Tịch thu hóa giá sung quỹ nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen đã qua sử dụng, số Imeil 355314109544961, bên trong có 01 thẻ sim. Toàn bộ vật chứng trên hiện đang được bảo quản tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Diễn Châu theo phiếu nhập kho số NK00138 ngày 28/9/2020.

Về án phí: Căn cứ vào điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14. Buộc bị cáo Phạm Văn Đ phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2020/HSST ngày 18/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:01/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Diễn Châu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về