Bản án 01/2020/HS-ST ngày 12/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 01/2020/HS-ST NGÀY 12/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nam Định tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 360/2020/TLST-HS ngày 16 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 360/2020/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đặng Xuân Q, sinh năm 1977 tại tỉnh Nam Định; nơi cư trú: số 9/20/44/188 đường T, phường N, thành phố N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: tự do; trình độ văn hóa: lớp 09/10; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đặng Xuân C và bà Phó Tuyết M; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: ngày 18/10/2007, Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, ngày 10/4/2014, Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (đều đã được xóa án tích); bị bắt, tạm giữ ngày 16-10-2020, chuyển tạm giam ngày 25-10-2020; có mặt.

- Bị hại: Anh Lê Ngọc L, sinh năm 1976; nơi cư trú: số 6/148 đường K, phường C, thành phố N, tỉnh Nam Định; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đặng Xuân Q có mối quan hệ bạn bè với anh Trần Mạnh H, sinh năm:

1982, nơi cư trú: số 7/2/38/2 N, phường T, thành phố N, tỉnh Nam Định. Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 15-10-2020, tại thành phố Nam Định có mưa kéo dài nên anh H điều khiển xe máy biển kiểm soát 18F4-6521 đến nhà Quang tại địa chỉ số 9/20/44/118 T, phường N, thành phố N nhờ Qg đến nhà kê cao đồ tránh ngập nước. Q đồng ý rồi mặc áo mưa trùm màu đỏ, ngồi sau xe máy do anh Hà điều khiển đi theo tuyến đường Nguyễn Văn Trỗi - Trần Bích San - Song Hào - Nguyễn Bính thành phố N. Khi đi đến gần ngã tư Song Hào- Nguyễn Bính thì xe máy bị ngập nước, chết máy nên anh Hà dắt xe còn Q đẩy phía sau vào đường Ng thành phố N. Q đẩy xe đi qua trạm biến áp điện của Công ty TNHH dệt Vĩnh Phúc đặt cạnh số nhà 101 đường Nguyễn Bính thì phát hiện chiếc xe máy Honda Wave biển kiểm soát 79N5-3329 của anh Lê Ngọc L (là công nhân của công ty dệt Vĩnh Phúc đang khắc phục sự cố điện trong trạm biến áp để trên lòng đường trước cửa số nhà 101 N, đầu xe hướng về phía đường Song Hào, xe không có chìa khóa nhưng đèn báo điện trên đồng hồ vẫn sáng. Lúc đó trời đang mưa to, đường không có người qua lại, chiếc xe máy này không có ai trông coi, Quang nảy sinh ý định trộm cắp nên nói với anh H cứ về trước, để Quang đi có việc về sau. Anh H đồng ý và tiếp tục dắt xe máy biển kiểm soát 18F4-6521 về nhà còn Quang đi bộ quay lại vị trí chiếc xe biển kiểm soát 79N5-3329 rồi quay đầu xe nổ máy tẩu thoát theo hướng đường Văn Cao - Trần Quang Khải về nhà cất giấu để tìm nơi tiêu thụ.

Ngay sau khi phát hiện ra bị mất xe, anh Lê Ngọc Lâm đã đến trụ sở Công an phường Trần Quang Khải để trình báo. Sau khi tiến hành một số hoạt động xác minh ban đầu, Công an phường T đã chuyển toàn bộ vụ việc lên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công thành phố N để giải quyết theo thẩm quyền. Quá trình xác minh vụ việc, ngày 16-10-2020 Cơ quan điều tra ra lệnh bắt khẩn cấp đối với Quang, thu giữ tại nhà Quang chiếc xe máy biển kiểm soát 79N5-3329 cùng chiếc áo mưa Quang sử dụng khi trộm cắp tài sản. Tại Cơ quan điều tra, Quang khai nhận toàn hành vi trộm cắp tài sản như trên.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 50/KL-ĐGTS ngày 22-10-2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: Chiếc xe máy biển kiểm soát 79N5-3329 là vật chứng trong vụ án có trị giá 9.000.000 đồng. Sau khi định giá, Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe máy cho bị hại là anh Lê Ngọc L, anh Lâm nhận lại tài sản và không có đề nghị gì khác.

Bản Cáo trạng số 01/CT-VKS ngày 14 tháng 12 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố Đặng Xuân Q về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên toà, bị cáo Đặng Xuân Q khai: Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 20-7- 2020, bị cáo đã có hành vi lén lút chiếm đoạt chiếc xe máy biển kiểm soát 79N5- 3329 của anh Lê Ngọc Lâm như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định giữ quyền công tố tại phiên tòa luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Đặng Xuân Q theo toàn bộ nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); tuyên bố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản”; xử phạt bị cáo từ 15 tháng đến 18 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 để xử lý vật chứng.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Đặng Xuân Q và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về trách nhiệm hình sự: Lời khai nhận tội của bị cáo Đặng Xuân Q phù hợp với lời khai của bị hại, kết luận định giá của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án; đã có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 20-7-2020, Đặng Xuân Q có hành vi lén lút chiếm đoạt chiếc xe máy biển kiểm soát 79N5-3329 của anh Lê Ngọc Lâm có trị giá 9.000.000 đồng tại phía trước nhà số 101 N phường T thành phố N. Bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của bị cáo đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo hộ nhưng vẫn thực hiện vì mục đích tư lợi, lỗi của bị cáo là lỗi cố ý. Do đó, bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định là có căn cứ.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hành vi của bị cáo đã gây mất trật tự an toàn xã hội. Bị cáo có nhân thân xấu, đã 02 lần bị kết án đã được xóa án tích. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình, do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

01 chiếc áo mưa trùm màu đỏ đã thu giữ của bị cáo không còn giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy.

[6] Về vấn đề dân sự: Bị hại là anh Lê Ngọc L đã nhận lại tài sản và không đề nghị giải quyết vấn đề bồi thường nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

1. Tuyên bố: Bị cáo Đặng Xuân Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Đặng Xuân Q 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 16-10-2020.

2. Xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 01 chiếc áo mưa trùm màu đỏ (chi tiết vật chứng ghi trong biên bản giao nhận vật chứng).

3. Án phí: Bị cáo Đặng Xuân Q phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Đặng Xuân Q được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại là anh Lê Ngọc Lâm được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2020/HS-ST ngày 12/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:01/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về