Bản án 01/2020/HS-ST ngày 06/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MAI SƠN - TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 01/2020/HS-ST NGÀY 06/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 03/2020/TLST-HS ngày 05 tháng 10 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2020/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn S. Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 14/02/1971 tại huyện MS, tỉnh Sơn La.

Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi ở: Tiểu khu A, thị trấn HL, huyện MS, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 03/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn C, sinh năm 1931 và bà: Hoàng Thị Th, sinh năm 1941; Bị cáo có vợ là Đinh Thị D, sinh năm 1971, đã ly hôn; Bị cáo có 02 con, con lớn 22 tuổi, con nhỏ 12 tuổi.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Bản án số: 53/2009/HSST ngày 12.5.2009 của Tòa án nhân dân huyện MS, tỉnh Sơn La xử phạt Nguyễn Văn S 07 năm tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (đã được xóa án tích).

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/6/2020 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 11 giờ 30 phút ngày 23.6.2020, Nguyễn Văn S đón xe khách từ nhà thuộc tiểu khu A, thị trấn HL, huyện MS đến huyện TC, tỉnh Sơn La mục đích để mua ma túy sử dụng. Khi đến khu vực xã TM, huyện TC, S xuống xe đi bộ. Trên đường đi S gặp và mua của một người đàn ông không quen biết được 01 gói heroine với giá 2.000.000VNĐ và người đàn ông đó cho S thêm 04 viên hồng phiến. Mua được ma túy, S đi vào khu vực nương ngô gần đó sử dụng một phần heroine bằng hình thức hít. Số heroine còn lại S gói lại cất vào túi quần đang mặc đón xe khách về nhà. Khoảng 19 giờ cùng ngày, tại nhà ở, S lấy một phần bằng hình thức hít. Đến 06 giờ ngày 24.6.2020, S lấy 01 viên hồng phiến còn lại vào mảnh nilon màu trắng và chia heroine thành 07 phần rồi gói thành 07 gói (trong đó có một gói nilon màu xanh; 01 gói nilon màu xanh bên trong có 04 gói nilon màu hồng; 01 gói nilon màu hồng, 01 gói nilon màu trắng). Sau đó cho gói hồng phiến và gói heroine được gói bằng nilon màu trắng cho vào túi nilon màu trắng và lấy 01 gói heroine được gói bằng nilon màu hồng cho vào hộp nhựa màu trắng có nắp đậy màu đỏ cất vào túi áo khoác treo tại cánh tủ quần áo cạnh giường ngủ mục đích để sử dụng. Đến 09 giờ 30 phút cùng ngày, S lấy số heroine cất vào túi quần đang mặc và cầm trên tay trái tìm nơi sử dụng thì bị Tổ công tác Công an huyện MS phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng gồm: 02 gói nilon màu xanh bên trong đều chứa chất bột nán màu trắng nghi heroine do Sơn lấy từ bàn tay trái giao nộp, 01 điện thoại di động hiệu VIVO 1723 kèm theo 01 sim điện thoại, 01 điện thoại di động hiệu Vertu Model V05 kèm theo 01 sim điện thoại và 01 ví giả da hiệu Gucci bên trong có 3.770.000VNĐ.

Cùng ngày Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện MS thi hành lệnh khám xét khẩn cấm nhà ở, đồ vật của Nguyễn Văn S, kết quả thu giữ tại túi áo khoác bên trái treo tại cánh cửa giường ngủ 01 hộp nhựa màu trắng có nắp nhựa màu đỏ bên trong có 01 gói nilon màu hồng chứa chất bột nén màu trắng và 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa 02 gói nilon màu trắng (trong đó gói thứ nhất chứa 03 viên nén màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có chữ WY, gói thứ hai chứa chất bột nén màu trắng nghi heroine.

Ngày 24.6.2020 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện MS phối hợp với Phòng k thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La tiến hành bóc mở niêm phong, cân tịnh, trích rút mẫu giám định đối với vật chứng thu giữ của Nguyễn Văn Sơn, kết quả: Gói bột nén màu trắng thứ nhất thu khi bắt quả tang có khối lượng 0,04gam, lấy toàn bộ làm mẫu giám định ký hiệu M1; Gói chất bột nén màu trắng thứ hai thu khi bắt quả tang có khối lượng 0,21 gam, lấy toàn bộ làm mẫu giám định ký hiệu M2;

Gói bột nén màu trắng trong gói nilon màu hồng thu khi khám xét có khối lượng 0,05 gam lấy toàn bộ làm mẫu giám định ký hiệu M3; 03 viên nén màu hồng thu khi khám xét có khối lượng 0,29 gam, lấy toàn bộ làm mẫu giám định ký hiệu M4; Gói chất bột nén màu trắng trong gói nilon màu trắng thu khi khám xét có khối lượng 0,15gam, lấy toàn bộ làm mẫu giám định ký hiệu M5.

Tại bản kết luận giám định số 1086/KLMT ngày 26/6/2020 của Phòng k thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận:

“- Mẫu gửi giám định ký hiệu M4 là ma túy; loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,29 gam.

Mẫu gửi giám định ký hiệu M1, M2, M3, M5 đều làm ma túy; loại heroine;

khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,45gam.

- Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,29 gam; loại Methamphetamine và 0,45gam; loại heroine.” Bản cáo trạng số 98/CT-VKSMS ngày 02/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn S về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Sau khi kết thúc phần thẩm vấn, đại diện Viện kiểm sát trình bày luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo cáo trạng và đề nghị hội đồng xét xử: Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn S phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S từ 18 tháng đến 20 tháng tù.

Miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 vỏ bao bì thư do Công an huyện MS phát hành bên trong chứa 02 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu, hộp nhựa màu trắng có nắp đậy màu đỏ, các mảnh nilon màu xanh, màu hồng, mảnh giấy, túi nilon màu trắng gói ma túy ban đầu; 01 ví giả da hiệu Gucci; 01 phong bì thư có Công an huyện MS phát hành bên trong chứa cân điện tử, túi đựng các mảnh giấy, mảnh nilon; 01 ống điếu tự chế bằng chai nhựa màu trắng, có gắn ống mút nhựa màu xanh và 01 phong bì thư do Phòng k thuật hình sự Công an tỉnh Sơn la phát hành bên trong chứa phong bì gửi giám định đã bóc mở, 0,28 gam heroine và 0,09 gam Methamphetamine không sử dụng trong quá trình giám định.

Trả lại cho Nguyễn Văn S 01 điện thoại di động hiệu VIVO 1723 kèm theo 01 sim điện thoại và 01 điện thoại di động hiệu Vertu Model V05, kèm theo 01 sim điện thoại; Số tiền 3.770.000VNĐ đã thu giữ của bị cáo.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015;

Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000VNĐ.

Bị cáo Nguyễn Văn S tự bào chữa: Nhất trí với nội dung luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tình tiết định tội, định khung hình phạt: Ngày 24.6.2020, Nguyễn Văn S đã mua ma túy về sử dụng và đã bị Tổ công tác Công an huyện MS phát hiện thu giữ 0,45 gam heroine và 0,29 gam Methamphetamine.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 09 giờ 40 phút ngày 24.6.2020 của Tổ công tác Công an huyện MS; biên bản mở niêm phong, cân tịnh xác định khối lượng, trích mẫu giám định và niêm phong lại vật chứng, kết luận giám định về ma túy số 1086 ngày 26/6/2020 của Phòng k thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Qua tranh luận tại phiên tòa không có gì mâu thu n. Tại phiên tòa không phát sinh chứng cứ mới.

Như vậy đã có đầy đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Văn S phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Với việc mua 0,45 gam heroine và 0,29 gam Methamphetamone, căn cứ Điều 4 Nghị định 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ thì tổng khối lượng ma túy đã thu giữ của bị cáo là 0,74 gam, mục đích để sử dụng, thì Viện kiểm sát truy tố và Tòa án xét xử bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai cho bị cáo.

[2] Xét thấy tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Nhận thức được hành vi Mua bán, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng do bị cáo không chịu tu dưỡng nên đã phạm tội với lỗi cố ý. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, gây ảnh mất an ninh trật tự tại địa phương.

[3] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tuy nhiên về nhân thân ngày 12.5.2009 bị cáo đã Tòa án nhân dân huyện MS, tỉnh Sơn La xử phạt 07 năm tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, tuy đã được xóa án tích nhưng cho thấy bị cáo có nhân thân xấu. Quá trình điều tra và tại phiên toà ngày hôm nay, bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bố đẻ bị cáo được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự sẽ được Hội đồng xét xử xem xét áp dụng đối với bị cáo khi quyết định hình phạt.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải có một hình phạt tù giam, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo giáo dục bị cáo, đồng thời để răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra và tại phiên tòa đã xác định, bản thân bị cáo không có tài sản riêng, sống phụ thuộc gia đình do đó không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ quy định tại điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự giải quyết như sau:

Tịch thu tiêu hủy 01 vỏ bao bì thư do Công an huyện MS phát hành bên trong chứa 02 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu, hộp nhựa màu trắng có nắp đậy màu đỏ, các mảnh nilon màu xanh, màu hồng, mảnh giấy, túi nilon màu trắng gói ma túy ban đầu; 01 ví giả da hiệu Gucci; 01 phong bì thư có Công an huyện MS phát hành bên trong chứa cân điện tử, túi đựng các mảnh giấy, mảnh nilon; 01 ống điếu tự chế bằng chai nhựa màu trắng, có gắn ống mút nhựa màu xanh và 01 phong bì thư do Phòng k thuật hình sự Công an tỉnh Sơn la phát hành bên trong chứa phong bì gửi giám định đã bóc mở, 0,28 gam heroine và 0,09 gam Methamphetamine không sử dụng trong quá trình giám định.

Trả lại cho Nguyễn Văn S 01 điện thoại di động hiệu VIVO 1723 kèm theo 01 sim điện thoại và 01 điện thoại di động hiệu Vertu Model V05, kèm theo 01 sim điện thoại; Số tiền 3.770.000VNĐ đã thu giữ của bị cáo vì không liên quan đến hành vi phạm tội.

[6] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện MS, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện MS, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình điều tra, truy tố, và tại phiên tòa hôm nay không có người nào có ý kiến hoặc khiến nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Về nguồn gốc ma túy: Bị cáo khai mua ma túy của một người đàn ông không biết tên, địa chỉ tại khu vực xã TM, huyện TC, tỉnh Sơn La. Do việc mua bán không có người tham gia, chứng kiến. Ngoài lời khai của bị cáo, Cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra, mở rộng vụ án nên cần chấp nhận.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định chung.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S 18 (Mười tám) tháng tù.

Thời gian thụ hình tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 24/6/2020).

Không áp dụng hình phạt bổ sung.

2. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 vỏ bao bì thư do Công an huyện MS phát hành bên trong chứa 02 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu, hộp nhựa màu trắng có nắp đậy màu đỏ, các mảnh nilon màu xanh, màu hồng, mảnh giấy, túi nilon màu trắng gói ma túy ban đầu; 01 ví giả da hiệu Gucci; 01 phong bì thư có Công an huyện MS phát hành bên trong chứa cân điện tử, túi đựng các mảnh giấy, mảnh nilon; 01 ống điếu tự chế bằng chai nhựa màu trắng, có gắn ống mút nhựa màu xanh và 01 phong bì thư do Phòng k thuật hình sự Công an tỉnh Sơn la phát hành bên trong chứa phong bì gửi giám định đã bóc mở, 0,28 gam heroine và 0,09 gam Methamphetamine không sử dụng trong quá trình giám định.

Trả lại cho Nguyễn Văn S 01 điện thoại di động hiệu VIVO 1723 kèm theo 01 sim điện thoại và 01 điện thoại di động hiệu Vertu Model V05, kèm theo 01 sim điện thoại; Số tiền 3.770.000VNĐ đã thu giữ của bị cáo.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000VNĐ.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2020/HS-ST ngày 06/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:01/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mai Sơn - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về