Bản án 01/2020/HS-ST ngày 03/11/2020 về tội trộm cắp tài sản và tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LAI CHÂU, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 01/2020/HS-ST NGÀY 03/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 05/2020/TLST – HS ngày 06/10/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2020/QĐXXST-HS ngày 21/10/2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: BÙI VĂN PH – Tên gọi khác: Không, sinh năm 1990 tại tỉnh Vĩnh Phúc. Nơi ĐKHKTT: Tổ a, phường Q T, thành phố L C, tỉnh Lai Châu; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 0/12; dân tộc: Kinh; con ông: Bùi Văn H, sinh năm 1964 và bà Nguyễn Thị Ph, sinh năm 1968; vợ: Lò Thị H, sinh năm 1996, con: Có 01 con, sinh năm 2016; gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ hai; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Năm 2008 bị Tòa án nhân dân huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai xử phạt 07 năm tù về tội Cướp tài sản. Đến lần phạm tội này bị cáo đã chấp hành xong các quyết định của bản án, nên đã được xóa án tích. Trong thời gian cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 09/6/2020 đến ngày 09/8/2020, bị cáo lại phạm tội mới. Do đó ngày 22/6/2020 cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lai Châu ra quyết định tạm giữ bị cáo từ ngày 22/6/2020 và ra lệnh tạm giam ngày 01/7/2020, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

Anh Bùi Văn P, sinh năm 1987 Trú tại: Tổ a, phường Q T, thành phố L C, tỉnh Lai Châu (có mặt tại phiên tòa):

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Bùi Văn H, sinh năm 1964 Trú tại: Số nhà abc, đường xyz, tổ a, phường Q T, thành phố L C, tỉnh Lai Châu (có mặt tại phiên tòa):

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 04/6/2020, Bùi Văn Ph đến nhà anh trai Bùi Văn P, sinh năm 1987 ở tổ a, phường Q T, thành phố L C, tỉnh Lai Châu để chơi. Đến nơi, thấy cửa không khoá và không có ai ở nhà. Vì biết trong nhà anh P có lắp đặt hệ thống camera an ninh nên Ph đi ra phía sau nhà anh P, ngắt hệ thống điện để camera không hoạt động. Sau đó, Ph vào nhà lấy trộm 01 chiếc tivi Samsung Led 32 inch, màu đen để ở kệ trên tường, mục đích đem bán lấy tiền tiêu dùng cho bản thân. Ph mang chiếc tivi trộm được đến nhà Đồng Văn M, sinh năm 1986 tại tổ b, phường Q T, thành phố L C, tỉnh Lai Châu để bán cho M, nhưng M không có tiền nên không mua. Ph nói với M cho Ph để nhờ tivi ở nhà M và không nói với M đây là tài sản do Ph trộm cắp được.

Ngày 04/6/2020, Bùi Văn P là anh trai ruột của Ph đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lai Châu trình báo về việc bị mất trộm chiếc tivi và nghi ngờ cho Ph lấy trộm. Ngày 05/6/2020, Cơ quan điều tra triệu tập Ph đến làm việc. Tại đây, Ph khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và khai nhận chiếc tivi mà Ph trộm cắp được hiện đang để tại nhà M. Cùng ngày, Cơ quan điều tra tiến hành thu giữ chiếc tivi trên tại nhà của M.

Kết luận định giá số 08/KLĐG ngày 09/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Lai Châu kết luận: 01 tivi Samsung Led, 32 icnh màu đen, mua và sử dụng từ năm 2016 có giá trị là: 2.200.000 đồng.

Ngày 09/6/2020 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lai Châu ra Quyết định khởi tố vụ án, Quyết định khởi tố bị can đối với Bùi Văn Ph về tội Trộm cắp tài sản quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, và áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú tại phường Quyết Tiến, thành phố Lai Châu đối với bị cáo từ ngày 09/6/2020 đến ngày 09/8/2020.

Khoảng 09 giờ ngày 22/6/2020, Ph mang theo 01 gói được gói ngoài bằng nilon màu trắng bên trong có chứa Heroine, đi từ nhà mình điều khiển xe máy BKS: 25F1-3920 của bố đẻ là ông Bùi Văn H, sinh năm 1964, trú tại Tổ a, phường Q T, thành phố L C, tỉnh Lai Châu để mang đi bán. Hồi 09 giờ 30 phút cùng ngày, khi đến Km 29 + 800 Quốc lộ 4D thuộc tổ 6, phường Quyết Tiến, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu thì Ph bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lai Châu phát hiện bắt quả tang, thu giữ trong lòng bàn tay trái của Ph gói Heroine trên, tạm giữ 01 xe máy BKS: 25F1-3920 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Qmobile loại bàn phím, vỏ màu đen viền giữa màu đỏ.

Tại cơ quan điều tra, Ph khai nhận số ma túy bị thu giữ Ph tàng trữ trái phép nhằm mục đích bán cho Đồng Văn M (có lai lịch như trên). Ngày 17/7/2020, Cơ quan điều tra triệu tập M đến làm việc, M không thừa nhận việc gọi điện thoại giao dịch, hỏi mua ma túy của Ph vào ngày 22/6/2020.

Kết luận giám định số 331/GĐ-KTHS ngày 24/6/2020 của Ph kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: vật chứng thu giữ của Bùi Văn Ph có khối lượng là 0,26 gam, là ma túy, loại Heroine.

Vật chứng thu giữ:

01 chiếc tivi Samsung Led 32 inch, màu đen mà Ph trộm cắp được. Kết quả điều tra xác định, đây là tài sản hợp pháp của anh Bùi Văn P nên ngày 14/7/2020, Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc tivi trên cho anh P.

0,26 gam Heroine thu giữ của Bùi Văn Ph trong quá trình bắt người phạm tội quả tang ngày 22/6/2020 gửi giám định tại Ph kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu (không hoàn lại mẫu vật gửi giám định).

01 mảnh nilon màu trắng còn lại sau giám định, 01 xe máy nhãn hiệu SYM màu xanh đen, BKS: 25F1-3920, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Qmobile loại bàn phím, vỏ màu đen viền giữa màu đỏ. Hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lai Châu.

Về dân sự:

Bị hại Bùi Văn P đã nhận lại tài sản bị mất và không có đề nghị, yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: ông Bùi Văn H yêu cầu xin lại chiếc xe máy nhãn hiệu SYM màu xanh đen, BKS: 25F1-3920.

Cáo trạng số 50/CT- VKSTP, ngày 05/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu đã truy tố Bùi Văn Ph về tội "Trộm cắp tài sản" quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự và tội "Mua bán trái phép chất ma túy" quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự .

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Bùi Văn Ph mức án từ 09 tháng đến 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Bùi Văn Ph mức án từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội đối với bị cáo. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt 22/6/2020.

Về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 5 Điều 173, khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, điểm a, b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên:

Tịch thu tiêu hủy 01 P bì niêm P làm bằng P bì do Công an tỉnh Lai Châu phát hành, các mép dán được dán kín, trên mép dán có chữ ký giáp lai của các ông: Dương Văn H, Nguyễn Cao C, Phạm Hồng Th, Dương Thị Ng, Đèo Xuân L, dấu điểm chỉ ngón trỏ phải của đương sự Bùi Văn Ph và đóng hai hình dấu điểm chỉ ngón trỏ phải của đương sự Bùi Văn Ph và đóng hai hình dấu của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lai Châu. Mặt trước của bì niêm P ghi: Vỏ bao bì sau khi mở niêm P của Bùi Văn Ph. Ngoài cùng P bì niêm P được dán phủ một lớp băng dính trong suốt:

Trả lại cho bị cáo Bùi Văn Ph 01 điện thoại di động nhãn hiệu Qmobile loại bàn phím, vỏ màu đen viền giữa màu đỏ:

Trả lại cho ông Bùi Văn H 01 xe máy nhãn hiệu SYM màu xanh đen, BKS: 25F1-3920:

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật Tại phiên tòa bị cáo Bùi Văn Ph khai nhận hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố đối với bị cáo.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên rất hối hận, ăn năn hối cải và mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai đã khai báo tại cơ quan điều tra về quá trình thực hiện hành vi phạm tội, cũng như vật chứng thu giữ trong vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 09 giờ ngày 04/6/2020, lợi dụng sơ hở trong việc quản lý tài sản của anh Bùi Văn P, sinh năm 1987, trú tại tổ a, phường Q T, thành phố L C, tỉnh Lai Châu nên Bùi Văn Ph đã trộm cắp 01 chiếc tivi Samsung Led 32 inch, màu đen của anh Bùi Văn P trị giá 2.200.000 đồng, mục đích bán lấy tiền tiêu dùng cho bản thân.

Trong thời gian bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 09/6/2020 đến ngày 09/8/2020, Bùi Văn Ph tiếp tục phạm tội. Cụ thể: Hồi 09 giờ 30 phút ngày 22/6/2020, tại Km 29 + 800 Quốc lộ 4D thuộc tổ 6, phường Quyết Tiến, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu, Bùi Văn Ph tàng trữ trái phép 0,26 gam Heroine mục đích để bán thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lai Châu phát hiện bắt quả tang, thu giữ cùng vật chứng. Do đó hành vi của bị cáo Bùi Văn Ph đã đủ yếu tố cấu thành tội "Trộm cắp tài sản" quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự và tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

...

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng.” Khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

...

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Do vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội thì thấy:

Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác và xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự trị an trên địa bàn. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi "Trộm cắp tài sản" và "Mua bán trái phép chất ma túy" là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo đã bất chấp các quy định của pháp luật cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do đó cần có mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện để có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời nhằm răn đe và Ph ngừa chung trong xã hội.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng:

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu: Năm 2008 bị Tòa án nhân dân huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai xử phạt 07 năm tù về tội Cướp tài sản. Đến lần phạm tội này bị cáo đã chấp hành xong các quyết định của bản án, nên đã được xóa án tích. Lẽ ra bị cáo phải lấy đó làm bài học cho bản thân, nhưng bị cáo lại tỏ thái độ bất chấp các quy định của pháp luật và lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Tại phiên tòa bị hại anh Bùi Văn P có đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 và khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự thì bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo nghề nghiệp không ổn định, thu nhập thấp. Vì vậy, Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

Tại phiên toà bị hại anh Bùi Văn P đã nhận lại tài sản bị mất và không có đề nghị, yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm, nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề giải quyết.

[7] Đối với đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận.

[8] Về vật chứng vụ án:

01 chiếc tivi Samsung Led 32 inch, màu đen mà Ph trộm cắp được. Kết quả điều tra xác định, đây là tài sản hợp pháp của anh Bùi Văn P nên ngày 14/7/2020, Cơ quan điều tra Công an thành phố Lai Châu đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại chiếc tivi trên cho anh Bùi Văn P. Xét thấy việc trao trả trên là đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận.

Đối với 0,26 gam Heroine thu giữ của Bùi Văn P, Cơ quan điều tra đã gửi toàn bộ đi giám định, sau giám định không hoàn lại mẫu vật gửi giám định, do đó Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xem xét giải quyết.

01 mảnh nilon màu trắng còn lại sau giám định. Xét đây là công cụ, phương tiện phạm tội không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

01 điện thoại di động nhãn hiệu Qmobile loại bàn phím, vỏ màu đen viền giữa màu đỏ. Theo lời khai của bị cáo là Đồng Văn M gọi điện thoại cho bị cáo hỏi mua ma túy vào ngày 22/6/2020, quá trình điều tra M không thừa nhận việc gọi điện thoại giao dịch, hỏi mua ma túy của Ph. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra không xác định được cuộc gọi của M. Do đó cần trả lại cho bị cáo Bùi Văn Ph.

01 xe máy nhãn hiệu SYM màu xanh đen, BKS: 25F1-3920, Kết quả điều tra xác định chiếc xe máy trên là tài sản hợp pháp của ông Bùi Văn H, việc Ph lấy xe máy nói trên để thực hiện hành vi phạm tội, ông Hải không biết và tại phiên tòa ông Hải có đề nghị xin lại chiếc xe máy nói trên. Do đó cần trả lại chiếc xe máy nói trên cho ông Bùi Văn H.

[9] Liên quan trong vụ án:

Kết quả điều tra xác định, Đồng Văn M không biết chiếc tivi mà Bùi Văn Ph mang đến để ở nhà của M vào ngày 04/6/2020 là tài sản do Ph trộm cắp mà có nên hành vi của Đồng Văn M không cấu thành tội Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có theo quy định tại Điều 323 Bộ luật hình sự.

Theo lời khai của Bùi Văn Ph, 0,26 gam Heroine mà Cơ quan điều tra thu giữ là của Ph. Ph mua được của một người đàn ông tự giới thiệu tên là Tuấn với giá 400.000 đồng tại thị trấn Sìn Hồ, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu vào khoảng 09 giờ ngày 21/6/2020. Kết quả điều tra, không xác định được nhân thân lai lịch của người này nên không có cơ sở để điều tra làm rõ.

Kết quả điều tra xác định, việc mua bán trái phép chất ma túy giữa Bùi Văn Ph và Đồng Văn M không ai biết. M không thừa nhận việc mua ma túy của Ph. M và Ph không thỏa thuận về đặc điểm, khối lượng ma túy mua bán. M chưa chuyển tiền cho Ph và chưa nhận được ma túy. Do vậy, không đủ căn cứ để xử lý M về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự.

Kết quả điều tra xác định, việc Bùi Văn Ph lấy chiếc xe máy nhãn hiệu SYM màu xanh đen, BKS: 25F1-3920 của ông Bùi Văn H vào việc phạm tội, ông Hải không biết nên hành vi của ông Hải không đồng phạm với Ph về tội Mua bán trái phép chất ma túy quy định tại Điều 251 Bộ luật hình sự.

[9] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 55 Bộ luật hình sự; điểm a, b khoản 1 Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Bùi Văn Ph phạm tội "Trộm cắp tài sản” và tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Bùi Văn Ph 09 (Chín) tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản" và 24 (Hai mươi bốn) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội buộc bị cáo Bùi Văn Ph phải chấp hành là 33 (Ba mươi ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt 22/6/2020.

3. Về vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) P bì niêm P làm bằng P bì do Công an tỉnh Lai Châu phát hành, các mép dán được dán kín, trên mép dán có chữ ký giáp lai của các ông: Dương Văn H, Nguyễn Cao C, Phạm Hồng Th, Dương Thị N, Đèo Xuân L, dấu điểm chỉ ngón trỏ phải của đương sự Bùi Văn Ph và đóng hai hình dấu điểm chỉ ngón trỏ phải của đương sự Bùi Văn Ph và đóng hai hình dấu của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lai Châu. Mặt trước của bì niêm P ghi: Vỏ bao bì sau khi mở niêm P của Bùi Văn Ph. Ngoài cùng P bì niêm P được dán phủ một lớp băng dính trong suốt:

Trả lại cho bị cáo Bùi Văn Ph 01 chiếc điện thoại di động loại bàn phím nhãn hiệu Qmobile-E4, số IMEI: 354381094899073.

Trả lại cho ông Bùi Văn H 01 (Một) chiếc xe máy nhãn hiệu SYM màu xanh đen gắn BKS: 25F1-3920 số máy: VMEM3G249268; không xác định được số khung, xe cũ đã qua sử dụng, không kiểm tra máy móc bên trong.

(Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/10/2020, giữa Công an thành phố Lai Châu và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lai Châu).

4. Về án phí:

Buộc bị cáo Bùi Văn Ph phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo lên Tòa án cấp trên trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

240
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2020/HS-ST ngày 03/11/2020 về tội trộm cắp tài sản và tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:01/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lai Châu - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về