TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TỈNH NINH BÌNH
BẢN ÁN 01/2020/HS-ST NGÀY 03/01/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 03 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:172/2019/HS-ST ngày 02/12/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 180/2019/QĐXXST-HS ngày 20/12/2019 đối với bị cáo:
Họ và tên: Trần Văn H sinh năm:1988, Nơi ĐKHKTT: xóm 12, xã Q, huyện K, tỉnh N. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ văn hóa lớp: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần Thanh H và con bà: Phạm Thị N; Vợ, con: Chưa có. Tiền án,Tiền sự: không.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/10/2019 đến ngày 24/10/2019 chuyển tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh N cho đến nay, có mặt.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Bà Vũ Thị X, sinh năm: 1960
Địa chỉ: thôn Trường A, xã Trường Y, huyện H, tỉnh N. Vắng mặt.
Người chứng kiến:
- Anh Đinh Tiến C, sinh năm 1977. Vắng mặt.
- Anh Vũ Quốc K, sinh năm 1951. Vắng mặt
Người làm chứng:
- Anh Ngô Văn A, sinh năm 1985. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo Trần Văn H là người nghiện ma túy, khoảng 10 giờ 30 phút ngày 19/10/2019, H mang theo 01 chiếc xi lanh nhựa loại 03ml/cc và 01 ống nước cất loại 05ml, điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 35B1 - 418.39 đi từ thôn Trường A, xã Trường Y, huyện H, tỉnh N đến xã Y, huyện Ý , tỉnh N mua ma túy về sử dụng. Khi đến thôn D, xã Y, huyện Ý , tỉnh N, H gặp và mua của một người đàn ông không quen biết đang đứng ở ven đường được 01 gói ma túy gói ngoài bằng giấy bạc màu trắng bên trong là chất bột dạng cục màu trắng với giá 200.000 đồng. Mua được ma túy, H cầm trong tay trái rồi điều khiển xe mô tô đi về thành phố N tìm nơi sử dụng. Hồi 11 giờ cùng ngày, khi đi đến khu vực đường Tràng A thuộc thôn Í, xã Ninh N, thành phố N, H dừng xe ở bên đường tìm nơi để sử dụng thì bị Tổ công tác Công an phường N, thành phố N phối hợp với Công an xã Ninh N, thành phố N làm nhiệm vụ phát hiện, yêu cầu kiểm tra. Do sợ H thả từ tay trái 01 gói ma túy vừa mua xuống đường ngay tại vị trí H dừng xe. Khi được yêu cầu, H đã nhặt lên giao nộp cho Tổ công tác và khai nhận đó là ma túy vừa mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác tiến hành thu giữ và niêm phong vật chứng theo đúng quy định của pháp luật, đưa H cùng vật chứng về trụ sở Công an xã Ninh N, thành phố N tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Ngoài ra Tổ công tác còn thu giữ tại túi trong bên trái áo bò của H đang mặc 01 chiếc xi lanh loại 3ml/cc, 01 lọ nước cất loại 5ml, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô mang tên Vũ Thị X, và 01 chiếc xe mô tô hiệu Honda Wave biển kiểm soát 35B1 - 418.39.
Tiến hành cân xác định khối lượng chất bột dạng cục màu trắng thu giữ của Trần Văn H có khối lượng 0,12 gam, ký hiệu M gửi đi giám định xác định loại ma túy, khối lượng ma túy.
Tại bản Kết luận giám định số 316 ngày 21/10/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N, Kết luận “Mẫu chất bột dạng cục màu trắng gửi giám định ký hiệu M có khối lượng 0,1152 gam (không phẩy một nghìn một năm mươi hai) gam là ma túy, loại Heroine. Heroine là chất ma túy thuộc bảng danh mục I, số thứ tự 9; Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ”. Cơ quan giám định hoàn lại đối tượng giám định gồm chất bột màu trắng còn lại trong mẫu gửi giám định ký hiệu M có khối lượng 0,0507 gam là ma túy, loại Heroine; Toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong được niêm phong trong phong bì ghi số 316/KLGĐ-PC09-MT theo đúng quy định của pháp luật. Tại bản Cáo trạng số 180/CT-VKS ngày 29/11/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N đã truy tố bị cáo Trần Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Trần Văn H đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình.
Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố N vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: bị cáo Trần Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Văn H từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/10/2019.
Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy: số ma túy còn lại cùng vỏ, bao gói niêm phong ban đầu; 01 chiếc xi lanh nhựa loại 3ml/cc và 01 lọ nước cất loại 5ml không có giá trị sử dụng.
Bị cáo bị kết án phải nộp án phí HSST và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn H không có ý kiến gì với Bản kết luận giám định; Quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N; lời nói sau cùng bị cáo đề nghị hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố N, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố, xét xử đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục được quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi và các quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện công khai, hợp pháp đúng Pháp luật.
[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên toà bị cáo Trần Văn H đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như vật chứng đã thu giữ; kết luận giám định và phù hợp với lời khai của người chứng kiến. Ngày 19/10/2019 Trần Văn H có hành vi cất giữ trong người khối lượng 0,1152 gam Heroine để sử dụng cho bản thân đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố bị cáo với tội danh và khung hình phạt trên là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan sai.
Hành vi phạm tội của bị cáo mang tính nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý, là một trong những nguyên nhân gia tăng các tệ nạn xã hội, phát sinh các tội phạm khác, làm ảnh hưởng xấu đến an ninh và trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Bị cáo là người đã trưởng thành, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của ma túy nhưng bị cáo lại không chịu tu dưỡng rèn luyện, chịu khó lao động, học tập để trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội, mà vẫn tiếp tục đi vào con đường phạm tội. Hội đồng xét xử thấy cần phải có hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất, hành vi mà bị cáo đã thực hiện mới có đủ sức răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo góp phần phòng ngừa chung trong xã hội. Do đó, Hội đồng xét xử thấy cần buộc bị cáo phải chịu mức hình phạt tù có thời hạn, cách lý bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để giúp cho bị cáo nhận thức và từ bỏ ma túy đồng thời cải tạo tốt sớm trở về với gia đình và xã hội.
Khi lượng mức hình phạt Hội đồng xét xử cân nhắc xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được áp dụng để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt như: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn về hành vi phạm tội của mình là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ nói trên để giảm một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện sự khoan hồng của pháp luật; Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Trần Văn H tàng trữ trái phép ma túy mục đích để sử dụng cho bản thân, không mang mục đích vụ lợi vì vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[3] Các vấn đề khác:
- Về nguồn gốc ma túy: bị cáo H khai mua của một người không quen biết ở một ngôi nhà không rõ địa chỉ thuộc khu vực xã Y, huyện Ý , tỉnh N nên Cơ quan cảnh sát điều tra không đủ cở sở điều tra, làm rõ.
- Vật chứng của vụ án: Trong quá trình điều tra cơ quan công an có thu giữ của bị cáo 01 gói ma túy có khối lượng 0,1152gam, đã trích một phần ký hiệu M gửi đi giám định, số ma túy còn lại là 0,0507 gam là Heroine, Cơ quan Công an hoàn trả lại cùng toàn bộ vỏ, giấy gói ban đầu, vỏ bao gói niêm phong, đây là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 xilanh nhựa loại 3ml/cc, 01 lọ nước cất loại 5ml không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.
- Đối với chiếc xe mô tô hiệu Honda Wave biển kiểm soát 35B1 - 418.39 thu giữ của H, quá trình điều tra xác định thuộc sở hữu của bà Vũ Thị X, sinh năm 1960, trú tại thôn Trường A, xã Trường Y, huyện H, tỉnh N, bà X cho anh Ngô Văn A, sinh năm 1985, là con đẻ của bà X mượn chiếc xe mô tô trên để đi làm, H mượn chiếc xe mô tô trên của anh A nói đi có việc. Việc H sử dụng chiếc xe mô tô trên làm phương tiện đi mua ma túy bà X và anh A không biết. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố N đã trả lại chiếc xe mô tô trên cùng 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô mang tên Vũ Thị X cho bà X, bà X đã nhận lại tài sản, không có đề nghị gì. Việc trả lại tài sản trên là phù hợp với quy định của pháp luật.
Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn H phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt: Bị cáo Trần Văn H 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 19/10/2019.
2. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số mà túy là Heroine còn lại cùng toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong ban đầu; 01 xilanh nhựa loại 3ml/cc, 01 lọ nước cất loại 5ml (trong phong bì niêm phong ký hiệu A2) . (Vật chứng có đặc điểm theo như biên bản giao nhận vật chứng ngày 09 tháng 12 năm 2019 giữa Công an Thành phố N và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N).
3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ Luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Trần Văn H phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung ngân sách Nhà nước.
Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 01/2020/HS-ST ngày 03/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 01/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 03/01/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về