TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 01/2020/HNGĐ-PT NGÀY 20/01/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH - LY HÔN
Ngày 20 tháng 01 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 32/2019/TLPT-HNGĐ ngày 25/12/2019 về việc “Tranh chấp hôn nhân gia đình – ly hôn”.
Do bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 100/2019/HNGĐ-ST ngày 15/10/2019 của Toà án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 605/2019/QĐPT- HNGĐ ngày 25 tháng 12 năm 2019, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Trung T, sinh năm 1982 (có mặt) Địa chỉ: Số 1073Đ/54, khóm Bình Khánh 5, phường B Kh, t p L X, tỉnh A G.
- Bị đơn: Bà Hồ Thị Như Y, sinh năm 1987 (có mặt) Địa chỉ: Số 1073Đ/54, khóm Bình Khánh 5, phường B Kh, t p L X, tỉnh A G.
Người kháng cáo: Bà Hồ Thị Như Y – bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo nội dung án sơ thẩm Nguyên đơn ông Nguyễn Trung T trình bày: Về quan hệ hôn nhân:
Ông và bà Hồ Thị Như Y tìm hiểu, yêu thương và tự nguyện tiến đến hôn nhân, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Bình Khánh, thành phố Long Xuyên ngày 08/8/2012, hôn nhân lần thứ nhất của ông bà. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, bà Như Y quá kiểm soát cuộc sống của ông dẫn đến cuộc sống gia đình ngột ngạt, không hạnh phúc. Ông nhiều lần giải thích để bà Như Y hiểu vì tính chất công việc nên ông thường xuyên đi ra ngoài tiếp khách, ngoại giao nhưng bà Như Y vẫn không tin tưởng, thay đổi. Do mâu thuẫn đã trầm trọng, tình cảm dành cho nhau không còn, hôn nhân không hạnh phúc nên ông T yêu cầu ly hôn.
Về con chung: Ông bà có một con chung tên Nguyễn Hồ Ý Nhi, sinh ngày 09/10/2012. Ông thống nhất nguyện vọng của con chung được sống với bà Như Y sau khi ly hôn, bà Như Y không yêu cầu ông cấp dưỡng nuôi con thì ông đồng ý.
Về tài sản chung và nợ chung: Ông bà tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.
Bị đơn bà Hồ Thị Như Y trình bày: Về quan hệ hôn nhân bà thống nhất lời trình bày của ông T về quan hệ hôn nhân cũng như những mâu thuẫn phát sinh trong đời sống hôn nhân. Do vợ chồng chưa hiểu nhau, hơn nữa vì nghĩ có quan tâm thương yêu nên mới kiểm soát, nhiều lời với ông T, nhưng điều đó lại gây cho ông T sự khó chịu, bất mãn, từ đó tình cảm vợ chồng ngột ngạt thiếu sự tôn trọng, thương yêu và chia sẻ cùng nhau. Dù vợ chồng có bất hòa nhưng bà vẫn không đồng ý ly hôn, vì tình cảm dành cho ông T vẫn còn, mâu thuẫn chưa trầm trọng đến mức phải ly hôn nên bà yêu cầu được đoàn tụ để hàn gắn xây dựng hạnh phúc gia đình, cùng nhau nuôi dạy con chung.
Về con chung: Bà thống nhất lời trình bày của ông T là ông bà có một con chung tên Nguyễn Hồ Ý Nhi, sinh ngày 09/10/2012. Nếu giải quyết cho vợ chồng ly hôn bà thống nhất theo nguyện vọng của con được sống với mẹ, bà có công việc và thu nhập ổn định nên không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: Bà thống nhất lời trình bày của ông T về tài sản chung và nợ chung do ông bà tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại Bản án sơ thẩm số 100/2019/HNGĐ-ST ngày 15/10/2019 của Toà án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Trung T được ly hôn bà Hồ Thị Như Y.
2. Về con chung: Ông bà có một con chung tên Nguyễn Hồ Ý Nhi, sinh ngày 09/10/2012. Ông bà thỏa thuận:
Bà Như Y được trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.
Ông T không phải cấp dưỡng nuôi con chung, do bà Như Y không yêu cầu.
Bà Như Y phải tạo điều kiện cho ông T được thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Việc nuôi con không cố định.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 29/10/2019 bà Hồ Thị Như Y có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét: Bà không đồng ý ly hôn và muốn được đoàn tụ để con có cả cha và mẹ.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về nội dung tranh chấp.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Bà Hồ Thị Như Y trình bày: Vẫn còn thương chồng, chấp nhận bỏ qua hết những lỗi lầm của chồng, bản thân biết cái sai của mình và sẽ sửa sai, xin được đoàn tụ để cà hai cùng xây dựng gia đình và chăm sóc, dạy dỗ cho con.
- Ông Nguyễn Trung T trình bày: Không đồng ý theo yêu cầu kháng cáo của bà Như Y. Đề nghị xem xét y án sơ thẩm cho tôi được ly hôn với bà Như Y, vì bản thân tôi đã chịu đựng rất nhiều và đã suy nghĩ rất kỹ trước khi đưa ra quyết định ly hôn này. Mối quan hệ hôn nhân giữa tôi và bà Y không thể nào hàn gắn được.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang phát biểu: Về thủ tục tố tụng, kháng cáo của bà Hồ Thị Như Y là phù hợp pháp luật; Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử đã chấp hành đầy đủ quyđịnh của Bộ Luật tố tụng dân sự từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử. Các đương sự cũng đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật về tố tụng. Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Như Y. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Bà Hồ Thị Như Y kháng cáo trong hạn luật định và có đóng tạm ứng án phí đầy đủ nên được Hội đồng xét xử giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét yêu cầu kháng cáo của bà Như Y, thấy: Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về Ly hôn theo yêu cầu của một bên: “1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.” Căn cứ vào quy định trên, thấy mục đích kết hôn nhằm xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc.
Tình trạng của vợ chồng chỉ được coi là trầm trọng khi:
1. Vợ, chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.
2. Vợ hoặc chồng luôn có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau, như thường xuyên đánh đập, hoặc có hành vi khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.
Theo những phân tích trên, vợ chồng ông Tuyến và bà Như Ý vẫn chung sống một nhà, khi phát sinh mâu thuẫn vợ chồng tránh tiếng không hay chưa một lần báo chính quyền địa phương để hòa giải. Mặt khác, việc mâu thuẫn của vợ chồng chỉ có vợ chồng biết, bà con hàng xóm đều không biết. Điều này cho thấy, vợ chồng vẫn còn tôn trọng nhau. Vấn đề ở đây, lý do ly hôn của ông T đối với bà Như Y vì sự quan tâm quá mức của bà Y và bà Y chưa đặt mình vào vị trí của đối phương, sự quan tâm đó đã làm cho ông T khó chịu, ngột ngạt và gây nên vết nứt cho hôn nhân của chính ông bà. Bên cạnh đó, ông T còn thừa nhận có quan hệ tình cảm không đúng mực với người phụ nữ khác. Ngoài căn cứ này ra tại hồ sơ vụ kiện ông T không chứng minh được bất kỳ lý do nào khác thể hiện mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân giữa ông T và bà Y trầm trọng phải ly hôn. Ông T có quan hệ tình cảm với người khác nên chấp nhận cho ông T ly hôn trong trường hợp này là gián tiếp thừa nhận quan hệ tình cảm trái pháp luật của ông T. Hơn nữa tại phiên tòa sơ thẩm ngày 15/10/2019 (Biên bản phiên tòa – BL 48) ông T khai mới sống ly thân với bà Y khoản 1 tháng. Tại phiên tòa bà Như Y cũng thấy được cái sai của mình và đồng ý sửa chữa. Để đạt được mục đích hôn nhân, và con cái có được sự chăm sóc dạy dỗ của cha cả mẹ cần duy trì quan hệ hôn nhân của ông bà là cần thiết, phù hợp với đạo đức xã hội. Vì vậy HĐXX chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Hồ Thị Như Y, không chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[3] Về án phí: Người kháng cáo không phải chịu án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 2 Điều 308, khoản 2 Điều 148, Điều 313 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
- Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Hồ Thị Như Y.
- Sửa bản án sơ thẩm số 100/2019/HNGĐ-ST ngày 15/10/2019 của Toà án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang:
1. Về quan hệ hôn nhân: Không chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Trung T được ly hôn bà Hồ Thị Như Y.
2. Về án phí:
- Án phí sơ thẩm: Ông Nguyễn Trung T phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân sơ thẩm, được trừ vào 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0004578, ngày 08/7/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên. Ông T đã nộp đủ tiền án phí.
- Án phí phúc thẩm : Bà Hồ Thị Như Y không phải chịu án phí hôn nhân gia đình phúc thẩm, được nhận lại tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0005791 ngày 07/11/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 01/2020/HNGĐ-PT ngày 20/01/2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình - ly hôn
Số hiệu: | 01/2020/HNGĐ-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 20/01/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về