Bản án 01/2019/HS-ST ngày 26/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN QUAN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 01/2019/HS-ST NGÀY 26/02/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 02 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 01/2019/TLST-HS ngày 23 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2019/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê Văn B, sinh ngày 18 tháng 12 năm 1963 tại xã V, huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn K, xã V, huyện V, tỉnh Lạng Sơn; chỗ ở hiện nay: Thôn K1, xã V1, huyện V1, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: 7/10; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn Đ (đã chết) và bà Hứa Thị I (đã chết); vợ: Bế Thị X và 02 con; tiền án: Không, tiền sự: Không; nhân thân: Không bị kết án, xử phạt hành chính, xử lý kỷ luật; bị bắt tạm giữ từ ngày 13/12/2018, tạm giam từ ngày 16/12/2018 đến nay. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Lê Văn B: Bà Lương Thị Hương Lan – Trợ giúp viên pháp lý – Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

- Người làm chứng: Anh Trần Văn T. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 8 giờ 20 phút, ngày 13/12/2018 tổ công tác Công an huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn làm nhiệm vụ tại xã V1, huyện V1, tỉnh Lạng Sơn phát hiện bắt quả tang Lê Văn B có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói nhỏ chứa chất bột màu trắng trong túi quần bò phía trước bên phải. Lê Văn B khai nhận đó là ma túy Heroine mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ tang vật. Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn đã tiến hành khám xét nơi ở của Lê Văn B nhưng không thu giữ đồ vật, tài liệu gì.

Tại Kết luận giám định số 33/KL-PC09, ngày 14/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng gửi giám định là chất ma túy Heroine, có khối lượng 0,118 gam (đã trừ bì).

Tại Cơ quan điều tra bị cáo Lê Văn B khai: Bản thân sử dụng chất ma túy từ năm 2008 cho đến nay. Để có ma túy sử dụng, bị cáo thường đi ra khu vực cửa khẩu T, huyện V2 và thị trấn Đ, huyện C nhờ những người làm nghề xe ôm không rõ tên, tuổi, địa chỉ mua giúp ma túy. Lần mua ma túy gần nhất là khoảng 12 giờ ngày 12/12/2018, bị cáo đến khu vực trung tâm thương mại thuộc thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn thì gặp một người đàn ông hơn 30 tuổi bị cáo không biết tên, địa chỉ hỏi bị cáo có mua ma túy không, bị cáo đồng ý và đưa cho người đàn ông đó 100.000 đồng mua được 01 gói ma túy Heroine. Sau khi mua được ma túy, bị cáo mang về nhà đến 20 giờ cùng ngày bị cáo xẻ lấy 1/3 gói ma túy để sử dụng, số ma túy còn lại bị cáo cất trong túi quần bò phía trước bên phải. Đến sáng ngày 13/12/2018 thì bị Công an huyện Văn Quan kiểm tra bắt giữ người cùng tang vật.

Tại Bản cáo trạng số 01/CTr-VKS, ngày 21 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Lê Văn B có hành vi phạm tội và lý lịch nêu trên ra trước Toà án nhân dân huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn để xét xử về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại khoản 1, Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên toà bị cáo Lê Văn B thừa nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình như sau: Bản thân bị cáo nghiện chất ma túy từ năm 2008, để có ma túy sử dụng bị cáo thường ra khu vực cửa khẩu T, huyện V2 và thị trấn Đ, huyện C nhờ những người làm nghề xe ôm không rõ tên, tuổi, địa chỉ mua giúp ma túy. Ngày 12/12/2018 sau khi lên Ban chỉ huy quân sự huyện V3 nhận tiền trợ cấp một lần của mẹ bị cáo là bà Hứa Thị I, bị cáo điều khiển xe ra khu vực gần trung tâm thương mại Đ thì gặp một người đàn ông hơn 30 tuổi đi xe mô tô đến gần hỏi bị cáo “có lấy hàng không”, bị cáo hiểu người đàn ông đó có ma túy bán, bị cáo đồng ý mua và đưa cho người đàn ông đó 100.000 đồng, người đàn ông đưa cho bị cáo 01 gói giấy nhỏ bên trong có chứa chất ma túy. Sau khi mua được ma túy bị cáo lên cửa khẩu T tìm con nhưng không gặp nên quay về nhà. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày bị cáo xẻ lấy 1/3 gói ma túy mang ra sử dụng, số ma túy còn lại bị cáo cất trong túi quần bò phía trước bên phải. Đến sáng ngày 13/12/2018 bị cáo chuẩn bị đi uống thuốc Methadone thì bị Công an huyện Văn Quan kiểm tra bắt giữ người cùng tang vật.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lê Văn B phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý". Áp dụng điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Lê Văn B từ 18 đến 24 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo vì bị cáo nghiện ma túy, không có việc làm, không có tài sản, gia đình thuộc hộ nghèo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu để tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định; trả lại cho bị cáo 01 điện thoại màn hình cảm ứng mặt sau có chữ IPHONE, mặt trước màn hình bị nứt vỡ nhiều chỗ và số tiền 1.400.000 đồng. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Quan. Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày: Việc truy tố của Viện kiểm sát đối với bị cáo Lê Văn B về tội tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Nhất trí với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ, mức hình phạt và xử lý vật chứng đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo Lê Văn B tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; lời khai của người làm chứng và những chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, có đủ cơ sở để khẳng định: Bản thân bị cáo Lê Văn B nghiện chất ma túy, để có ma túy sử dụng bị cáo thường đi ra khu vực cửa khẩu T, huyện V2 và thị trấn Đ, huyện C nhờ những người làm nghề xe ôm không rõ tên, tuổi, địa chỉ mua giúp ma túy. Khoảng 12 giờ ngày 12/12/2018, bị cáo đến khu vực trung tâm thương mại thuộc thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn thì gặp một người đàn ông hơn 30 tuổi bị cáo không biết tên, địa chỉ hỏi bị cáo có mua ma túy không, bị cáo đồng ý và đưa cho người đàn ông đó 100.000 đồng mua được 01 gói ma túy Heroine. Sau khi mua được ma túy, bị cáo mang về nhà đến 20 giờ cùng ngày bị cáo xẻ lấy 1/3 gói ma túy để sử dụng, số ma túy còn lại bị cáo cất trong túi quần bò phía trước bên phải. Sáng ngày 13/12/2018 thì bị Công an huyện Văn Quan kiểm tra bắt giữ người cùng tang vật. Số lượng ma túy thu giữ của bị cáo Lê Văn B qua giám định kết luận là chất ma túy Heroine, có khối lượng 0,118 gam. Do đó có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Lê Văn B phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội. Ma túy là loại độc dược gây nghiện do Nhà nước độc quyền quản lý, đây là loại độc dược gây hại cho sức khỏe của con người. Việc tàng trữ trái phép chất ma túy cũng như tệ nạn ma túy nói chung làm băng hoại đạo đức và là nguyên nhân làm phát sinh các loại tệ nạn xã hội khác. Hiện nay, việc đấu tranh phòng chống tệ nạn ma túy đang là nhiệm vụ cấp bách của toàn xã hội. Chính vì vậy, mọi hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy đều phải bị xử lý nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật.

[4] Để có căn cứ quyết định hình phạt ngoài việc xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, cần phải xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

[5] Về nhân thân: Bản thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; nghiện chất ma túy.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bố của bị cáo là ông Lê Văn Đ được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhất. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[7] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Không có.

[8] Bị cáo nhận thức được rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện nhằm phục vụ lợi ích bất hợp pháp của mình. Do vậy, hành vi mà bị cáo gây ra cần phải bị xử lý nghiêm trước pháp luật. Cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định để có thể giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho gia đình, xã hội và phòng ngừa chung.

[9] Về hình phạt bổ sung: Theo biên bản xác minh ngày 28/12/2018 thể hiện bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, không có việc làm ổn định, gia đình thuộc diện hộ nghèo, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[10] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn về tội danh, hình phạt và các nội dung khác của vụ án là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[11] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo, do bị cáo không rõ lai lịch của người này nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý trong vụ án. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.

[12] Về xử lý vật chứng của vụ án gồm có: 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật là chất ma túy hoàn lại sau giám định; 01 điện thoại màn hình cảm ứng mặt sau có chữ IPHONE, mặt trước màn hình bị nứt vỡ nhiều chỗ và số tiền 1.400.000 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy: Đối với 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật là chất ma túy hoàn lại sau giám định là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu để tiêu huỷ; đối với 01 điện thoại màn hình cảm ứng mặt sau có chữ IPHONE, mặt trước màn hình bị nứt vỡ nhiều chỗ và số tiền 1.400.000 đồng không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.

[13] Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự theo quy định tại khoản 2, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015;

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lê Văn B phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lê Văn B 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 13/12/2018.

3. Xử lý vật chứng:

- Tịch thu để tiêu hủy 01 phong bì đựng mẫu vật bên trong có 0,091 gam Heroine hoàn lại sau giám định;

- Trả lại cho bị cáo Lê Văn B 01 điện thoại màn hình cảm ứng mặt sau có chữ IPHONE, mặt trước màn hình bị nứt vỡ nhiều chỗ, máy cũ đã qua sử dụng và số tiền 1.400.000 đồng (một triệu bốn trăm nghìn đồng).

(Vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 22 tháng 01 năm 2019. Số tiền 1.400.000 đồng hiện đang được gửi tại tài khoản của Chi cục Thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Tài khoản số 3949.0.1054780.00000 theo Ủy nhiệm chi chuyển khoản, chuyển tiền điện tử lập ngày 22 tháng 01 năm 2019).

4. Về án phí: Buộc bị cáo Lê Văn B phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung Ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2019/HS-ST ngày 26/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:01/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Văn Quan - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về