Bản án 01/2019/HNGĐ-ST ngày 25/01/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC HÀ, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 01/2019/HNGĐ- ST NGÀY 25/01/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 25 tháng 01 năm 2019. Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai.Tòa án nhân dân huyện Bắc Hà xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 02/2019/TLST-HNGĐ, ngày 02 tháng 01 năm 2019 về “ Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”.Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2019/QĐXX- ST, ngày 11 tháng 01 năm 2019 giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Anh Dương Văn Kh - sinh năm:1986. Địa chỉ: Thôn L 1, xã C, huyện B, tỉnh Lào Cai - Có mặt.

2.Bị đơn: Chị Lý Thị M - sinh năm 1986. Địa chỉ: Thôn L1, xã C, huyện B, tỉnh Lào Cai - Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ly hôn ngày 02/01/2019 và bản tự khai tiếp theo nguyên đơn anh Dương Văn Kh trình bày: Tôi và cô M về chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2006. Nhưng không làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND cấp có thẩm quyền theo quy định. Sau khi cưới chúng tôi sống hạnh phúc được mấy năm đầu sau đó phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do trong cuộc sống mỗi người một quan điểm sống, luôn bất hòa trong việc làm ăn, phát triển kinh tế gia đình. Dẫn đến cuộc sống không thể hòa hợp được, giữa chúng tôi thường xuyên xảy ra cãi, chửi lẫn nhau, không tôn trọng nhau, thường xuyên xúc phạm lẫn nhau. Từ nhiều mâu thuẫn khác nhau, không thể sống được với nhau, khi vợ chồng xảy ra mâu thuẫn đã được gia đình hai bên và tổ hòa giải của thôn đã hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, không thể chung sống với nhau được nữa. Nay xét thấy tình cảm không còn, để đảm bảo cuộc sống sau này của mỗi người trở nên được tốt hơn, giải quyết không công nhận mối quan hệ giữa tôi và cô Lý Thị M là vợ chồng.

Về con chung: Quá trình chung sống giữa tôi và cô M đã có 02 con chung.Cháu lớn tên là Dương Quang Kh - Sinh ngày 29 tháng 03 năm 2007. Cháu nhỏ tên là Dương Ngọc Kh - Sinh ngày 29 tháng 7 năm 2010. Khi ly hôn tôi đề nghị Tòa án giải quyết cho cô M được nuôi cháu Kh và cháu Kh1 cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Tôi sẽ có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung đối với cháu Kh1 mỗi tháng là 2.000.000 đồng ( Hai triệu đồng) cho đến khi cháu Kh1 đủ 18 tuổi.

Về tài sản: Anh Kh không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 02/01/2019 bị đơn chị Lý Thị M trình bầy: Tôi hoàn toàn nhất trí với lời trình bày của anh Kh về thời gian sống chung và quá trình chung sống từ năm 2006 cho đến nay nhưng không đi dăng ký kết hôn. Nguyên nhân mâu thuẫn giữa chúng tôi là do bất đồng quan điểm sống, làm ăn phát triển kinh tế dẫn đến vợ chồng xảy ra đánh, cải nhau, anh Khung đi làm ăn xa nhà, mỗi người sống một nơi, không quan tâm đến nhau. Nay anh Kh làm đơn xin ly hôn tôi, xét thấy tình cảm giữa chúng tôi không còn, nên tôi nhất trí ly hôn.

Về con chung: Trong thời gian sống chung gữa tôi và anh Kh có 02 con chung.Cháu lớn tên là Dương Quang Kh - Sinh ngày 29 tháng 03 năm 2007. Cháu nhỏ tên là Dương Ngọc Kh- Sinh ngày 29 tháng 7 năm 2010. Khi ly hôn tôi đề nghị Tòa án giải quyết cho tôi được nuôi cháu Kh và cháu Kh1 cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Tôi yêu cầu anh Kh phải có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung đối với cháu Kh1 mỗi tháng là 2.000.000 đồng ( Hai triệu đồng) cho đến khi cháu Kh1 đủ 18 tuổi.

Về tài sản: Chị M không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Hà phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 14, Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình tuyên bố: Không công nhận mối quan hệ giữa anh Dương Văn Kh với chị Lý Thị M là vợ chồng. Về nuôi con khi ly hôn: Áp dụng Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình: Giao cho Lý Thị M trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Dương Quang Kh - Sinh ngày 29 tháng 03 năm 2007 và cháu Dương Ngọc Kh - Sinh ngày 29 tháng 7 năm 2010, cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Anh Dương Văn Kh có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung đối với cháu Dương Ngọc Kh1 mỗi tháng là 2.000.000 đồng ( Hai triệu đồng) cho đến khi cháu Kh1 đủ 18 tuổi.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Anh Dương Văn Kh và chị Lý Thị M về chung sống với nhau từ năm 2006, tuy có thời gian chung sống hạnh phúc và được gia đình hai bên đồng ý, nhưng anh chị không có đăng ký kết hôn theo qui định của Luật hôn nhân và gia đình. Đến thời điểm anh Dương Văn Kh làm đơn khởi kiện xin ly hôn thì anh, chị có đủ các điều kiện để đăng ký theo qui định của pháp luật nhưng anh, chị đã không thực hiện nghĩa vụ đăng ký kết hôn theo Luật hôn nhân và gia đình. Như vậy, việc anh Kh và chị M chung sống không có đăng ký theo qui định là vi phạm Luật hôn nhân và gia đình, nên Hội đồng xét xử xem xét giải quyết, áp dụng khoản 1 Điều 14; Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình tuyên bố quan hệ giữa anh Dương Văn Kh và chị Lý Thị M không phải là vợ chồng.

[2] Về nuôi con khi ly hôn: Cả hai anh chị đều thừa nhận có 02 con chung. Cháu lớn tên là Dương Quang Kh - Sinh ngày 29 tháng 03 năm 2007. Cháu nhỏ tên là Dương Ngọc Kh - Sinh ngày 29 tháng 7 năm 2010.

Anh Kh đề nghị Tòa án giải quyết cho chị M được nuôi cháu Kh và cháu Kh1, anh Kh sẽ có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung đối với cháu Kh1 mỗi tháng là 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) cho đến khi cháu Kh1 đủ 18 tuổi.

Chị M đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được nuôi cả hai cháu Kh và cháu Kh1. Chị M yêu cầu anh Kh phải có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung đối với cháu Kh1 mỗi tháng là 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) cho đến khi cháu Kh1 đủ 18 tuổi.

Hội đồng xét xử, thấy rằng cháu Dương Quang Kh và cháu Dương Ngọc Kh đều có nguyện vọng nuốn được sống cùng với chị M. Hiện tại hai cháu đang sống cùng với chị M. Anh Kh và chị M đều có điều kiện để nuôi dạy con trưởng thành và đảm bảo cho sự phát triển của cháu Kh1 và cháu Kh. Tại Biên bản hòa giải về quan hệ nuôi con khi ly hôn ngày 11/01/2019. Anh Kh và chị M đã thỏa thuận để chị M trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Dương Quang Kh - Sinh ngày 29 tháng 03 năm 2007 và cháu Dương Ngọc Kh - Sinh ngày 29 tháng 7 năm 2010, cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi, anh Kh sẽ có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung đối với cháu Kh1 mỗi tháng là 2.000.000 đồng ( Hai triệu đồng) cho đến khi cháu Kh1 đủ 18 tuổi.Tại phiên tòa hôm nay, anh Kh và chị M vẫn giữ nguyên quan điểm như đã thỏa thuận. Hội đồng xét xử xem xét, chấp nhận đề nghị của anh Kh và tôn trọng sự thỏa thuận việc nuôi con giữa anh Kh và chị M. Xét thấy, việc thoả thuận của anh Kh và chị M là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với nguyện vọng của các bên và đúng theo qui định của pháp luật cần được công nhận và ghi trong bản án.

[3] Về tài sản chung: anh Dương Văn Kh và chị Lý Thị M tự thỏa thuận và không đề nghị Toà án giải quyết. Do vậy, Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Dương Văn Kh phải chịu tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thâm và tiền án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy đinh cua phap luât. 

[5] Về quyền kháng cáo: Anh Dương Văn Kh và chị Lý Thị M được quyền kháng cáo Bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 14; Điều 53; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

- Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Tuyên bố không công nhận mối quan hệ giữa anh Dương Văn Kh và chị Lý Thị M là quan hệ vợ chồng.

2. Về nuôi con khi ly hôn: Công nhận sự thỏa thuận của anh Dương Văn Kh và Chị Lý Thị M như sau: Chị Lý Thị M được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Dương Quang Kh - Sinh ngày 29 tháng 03 năm 2007 và cháu Dương Ngọc Kh - Sinh ngày 29 tháng 7 năm 2010, cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Anh Dương Văn Kh có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung đối với cháu Dương Ngọc Kh mỗi tháng là 2.000.000 đồng ( Hai triệu đồng) cho đến khi cháu Kh1 đủ 18 tuổi.

Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật và từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong khoản tiền cấp dưỡng nuôi con, hàng tháng bên phải thi hành án phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chậm thi hành án tương ứng với thời gian chậm thi hành án theo quy định tại Điều 357 Bộ luật dân sự.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con; mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Anh Dương Văn Kh phải chịu 300.000 đông (Ba trăm nghin đông) án phí sơ thẩm và 300.000 đồng ( Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí cấp dưỡng nuôi con. Tổng cộng là 600.000 đồng (Sáu trăm nghìn đồng). Nhưng đươc trư vao sô tiên tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đông theo biên lai sô 0002312, ngày 02 tháng 01 năm 2019 của Chi cục thi hành á n dân sư huyện B ắc Hà. Anh Kh còn phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí cấp dưỡng nuôi con.

Án xử công khai sơ thẩm nguyên đơn, bị đơn có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp Bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự; người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6; 7,7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

351
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2019/HNGĐ-ST ngày 25/01/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:01/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Hà - Lào Cai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:25/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về