Bản án 01/2019/DS-ST ngày 15/01/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÁC ÁI, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 01/2019/DS-ST NGÀY 15/01/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 01 năm 2019, tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Bác Ái xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 20/2018/TLST-DS ngày 19 tháng 10 năm 2018 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2018/QĐXX-ST ngày 11 tháng 12 năm 2018 giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Chị Châu Thị Ngọc Nh, sinh năm 1981 (Có mặt). 

Địa chỉ: 113, tổ 3 thôn LLL, xã LL, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng.

2. Bị đơn: Anh Trần Ngọc H, sinh năm 1978 (Vắng mặt)

Địa chỉ: Thôn ĐD, xã PT, huyện Bác Ái, tỉnh Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Châu Thị Ngọc Nh trình bày.

Trong tháng 7 và tháng 8 năm 2016, anh Trần Ngọc H có vay và viết giấy mượn tiền 185.500.000 (Một trăm tám mươi năm triệu năm trăm ngàn) đồng của chị để làm kinh tế, sau đó chị có gặp và nói cho chị Võ Thị Ngọc Th là vợ của anh Trần Ngọc H biết và yêu cầu chị Th viết, ký thêm vào giấy mượn tiền của anh H đã giao cho chị để giữ cho chắc. Thực tế người trực tiếp nhận tiền của chị là anh H, anh Hải sử dụng số tiền này làm việc gì chị Th không biết nên khoản nợ này không liên quan gì tới chị Th. Theo cam kết của anh H đến tháng 6/2018, anh H phải hoàn trả cho chị toàn bộ số tiền đã mượn, nhưng do anh H không thực hiện, vì vậy chị đã làm đơn yêu cầu Tòa Án buộc anh Trần Ngọc H phải trả cho chị toàn bộ số tiền mà anh H đã mượn vào năm 2016 theo quy định tại khoản 1 Điều 288 của Bộ luật dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều triệu tập anh Trần Ngọc H đến Tòa án giải quyết việc kiện với chị Nhi nhưng anh H không chấp hành, nhiều lần vắng mặt không có lý do. Qua xác minh ở địa phương cho thấy anh H có hộ khẩu thường trú tại; thôn ĐD, xã PT, huyện Bác Ái, hiện anh H đi làm ăn xa, thỉnh thoảng có ghé về nhà một vài ngày và không nói rõ địa chỉ. Tòa án huyện Bác Ái đã kết hợp với Ủy ban nhân dân (UBND) xã PT tiến hành niêm yết đấy đủ các văn bản tố tụng tại thôn ĐD, xã PT và nhà của anh H, vì vậy Tòa án không có lời khai của anh H và không tiến hành hòa giải được.

Sau khi Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, chị Nh đã làm đơn yêu cầu Tòa án cho đi giám định chữ viết, chữ ký trong giấy mượn tiền của anh Trần Ngọc H. Nhận được yêu cầu của chị Nh, Tòa án nhân dân huyện Bác Ái đã tiến hành thu thập các giấy tờ có liên quan đến chữ viết và chữ ký của anh H viết ra để làm căn cứ cho việc giám định và ra Quyết định trưng cầu giám định số 02/2018/QĐ-TCGĐ ngày 23/10/2018. Tại kết luận giám định số 138/KLGĐ ngày 06/11/2018 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh kết luận chữ ký trong giấy mượn tiền ngày 29/7/2016 và ngày 15/8/2016 là do anh Trần Ngọc H viết ra .

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bác Ái phát biểu ý kiến:

Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký Tòa án đã thực hiện các quy định của pháp luật, việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn chị Châu Thị Ngọc Nh kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án không có gì sai phạm. Bị đơn anh Trần Ngọc H không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình như không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án, không chấp hành các quyết định của Tòa án cố tình giấu địa chỉ nhiều lần vắng mặt không có lý do, gây khó khăn cho quá trình giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử đã áp dụng điểm e khoản 1 Điều 192 và điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt anh H là có căn cứ.

Đây là quan hệ tranh chấp hợp đồng vay tài sản giữa chị Châu Thị Ngọc Nh và anh Trần Ngọc H, hiện anh H đang sinh sống tại xã PT nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bác Ái theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS).

Căn cứ vào kết luận giám định số 138/KLGĐ ngày 06/11/2018 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Thuận kết luận chữ viết và chữ ký trong giấy mượn tiền ngày 29/7/2016 và ngày 15/8/2016 là do anh Trần Ngọc H viết ra nên có đủ cơ sở khẳng định anh Trần Ngọc H đã mượn của chị Châu Thị Ngọc Nh số tiền 185.500.000 đồng (Một trăm tám mươi lăm triệu năm trăm ngàn) đồng là đúng.

Tại phiên tòa chị Châu Thị Ngọc Nh yêu cầu anh Trần Ngọc H phải trả toàn bộ số tiền nợ 185.500.000 đồng (Một trăm tám mươi lăm triệu năm trăm ngàn) đồng là có căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 288, Điều 463 và Điều 466 của Bộ luật dân sự nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Nh, buộc anh Trần Ngọc H phải trả cho chị Nh toàn bộ số tiền nợ trên.

Về án phí: Áp dụng khoản 1 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội. Buộc anh Trần Ngọc H phải chịu 9.275.000 (Chín triệu hai trăm bảy mươi lăm ngàn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Chị Châu Thị Ngọc Nh không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, hoàn lại cho chị Nhi số tiền tạm ứng án phí đã nộp 4.638.000 (Bốn triệu sáu trăm ba mươi tám ngàn) đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0014800 ngày 19/10/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Bác Ái.

Chị Châu Thị Ngọc Nh đã tự nguyện nộp đủ 1.800.000 (Một triệu tám trăm ngàn đồng), chi phí cho việc giám đinh chữ ký và chữ viết của anh Trần Ngọc H và xin chịu khoản tiền chi phí giám định nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng: Ngày 16/10/2018, chị Châu Thị Ngọc Nh đã làm đơn khởi kiện yêu cầu anh Trần Ngọc H phải trả khoản tiền nợ, hiện anh Hải đang làm ăn sinh sống tại xã PT. Tòa án huyện Bác Ái áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

Trong quá trình giải quyết vụ án anh H không chấp hành các giấy triệu tập của Tòa án nhiều lần vắng mặt không có lý do và cố tình dấu địa chỉ nên Tòa án không có lời khai của anh H và không tiến hành hòa giải được và Hội đồng xét xử áp dụng điểm e khoản 1 Điều 192 và điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh H là phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Về áp dụng pháp luật nội dung:

Sau khi Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, chị Nh đã làm đơn yêu cầu Tòa án cho đi giám định chữ viết, chữ ký trong giấy mượn tiền của anh Trần Ngọc H. Nhận được yêu cầu của chị Nh, Tòa án nhân dân huyện Bác Ái đã tiến hành thu thập các giấy tờ có liên quan đến chữ viết, chữ ký của anh H viết ra để làm căn cứ cho việc giám định và ra Quyết định trưng cầu giám định số 02/2018/QĐ-TCGĐ ngày 23/10/2018. Tại kết luận giám định số 138/KLGĐ ngày 06/11/2018 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh kết luận chữ ký trong giấy mượn tiền ngày 29/7/2016 và ngày 15/8/2016 là do anh Trần Ngọc H viết ra nên có đủ cơ sở khẳng định anh Trần Ngọc H đã mượn của chị Châu Thị Ngọc Nh số tiền 185.500.000 đồng (Một trăm tám mươi lăm triệu năm trăm ngàn) đồng.

Tại phiên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bác Ái đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Châu Thị Ngọc Nh, buộc anh Trần Ngọc H phải trả cho chị Nh toàn bộ số tiền nợ 185.500.000 đồng (Một trăm tám mươi lăm triệu năm trăm ngàn) đồng là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 288, Điều 463 và Điều 466 của Bộ luật dân sự nên chấp nhận.

[3] Về án phí: Áp dụng khoản 1 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, buộc anh Trần Ngọc H phải chịu 9.275.000 (Chín triệu hai trăm bảy mươi lăm ngàn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Chị Châu Thị Ngọc Nh không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, hoàn lại cho chị Nh số tiền tạm ứng án phí đã nộp 4.638.000 (Bốn triệu sáu trăm ba mươi tám ngàn) đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0014800 ngày 19/10/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Bác Ái.

Chị Châu Thị Ngọc Nh đã tự nguyện nộp đủ 1.800.000 (Một triệu tám trăm ngàn đồng), chi phí cho việc giám đinh chữ ký và chữ viết của anh Trần Ngọc H và không có yêu cầu gì nên không đề cập đến.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 147, điểm e khoản 1 Điều 192, điểm b khoản 2 Điều 227 của (BLTTDS).

Căn cứ khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 288, Điều 463 và Điều 466 của Bộ luật dân sự:

1/ Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Châu Thị Ngọc Nh, buộc anh Trần Ngọc H phải trả cho chị Nhi số tiền nợ 185.500.000 đồng (Một trăm tám mươi lăm triệu năm trăm ngàn) đồng.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án nếu người phải thi hành án không thanh toán cho người được thi hành án số tiền trên thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải tiếp tục trả cho người được thi hành án một khoản lãi suất của số tiền gốc chậm trả được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.

2/ Về án phí: Anh Trần Ngọc H phải chịu 9.275.000 (Chín triệu hai trăm bảy mươi lăm ngàn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Chị Châu Thị Ngọc Nh không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, hoàn lại cho chị Nh số tiền tạm ứng án phí đã nộp 4.638.000 (Bốn triệu sáu trăm ba mươi tám ngàn) đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0014800 ngày 19/10/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Bác Ái.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 của Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

3/ Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, báo cho nguyên đơn có mặt biết được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Bị đơn anh Trần Ngọc H vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

290
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2019/DS-ST ngày 15/01/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:01/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bác ái - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:15/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về