Bản án 01/2019/DS-PT ngày 22/01/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 01 /2019/DS- PT NGÀY 22/01/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ tiến hành xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 59/2018/TLPT-DS ngày 05 tháng 12 năm 2018 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản ”

Do bản án dân sự sơ thẩm số: 12/2018/DSST ngày 17 tháng 9 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện T bị kháng cáo.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 03/2019/QĐXXPT-DS ngày 04 tháng 01 năm 2019 giữa các đương sự:

1 - Nguyên đơn: Anh Lê Viết C, sinh năm 1980.Địa chỉ: khu 2, thị trấn S, huyện S, tỉnh B (có mặt)

2 - Bị đơn: Bà nguyễn Thị T, sinh năm 1960. Địa chỉ: Khu Mố, xã S, huyện T, tỉnh Phú Thọ (có mặt)

3 - Người kháng cáo: Bà nguyễn Thị T - bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 - Theo đơn khởi kiện và các lời khai anh Lê Viết C trình bày: Ngày 17/4/2017 anh có cho bà T vay số tiền là 120.000.000đ. Khi vay có viết giấy vay tiền, hẹn ngày 17/5/2017 trả, lãi suất hai bên thỏa thuận. Bà T có giao cho anh C một sổ hộ khẩu, một chứng minh nhân dân, một giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên bà T. Ngày 13/11/2017 bà T vay tiếp 200.000.000đ, lãi suất theo thỏa thuận, có hợp đồng vay, có công chứng. Hạn trả là sau 45 ngày (28/12/2017). Hai lần đi vay đều có chị Đặng Thị Phương G (cháu dâu bà T) đi cùng, chị G đọc để bà T ký tên hoặc điểm chỉ. Tổng 2 lần vay là 320.000.000đ. Bà T mới trả được tiền lãi của 2 tháng đối với khoản vay đầu. Nay anh đề nghị bà T phải trả cho anh toàn bộ tiền gốc. Tiền lãi được tính theo mức 1%/tháng đối với cả 2 khoản vay.Tiền lãi đối với khoản vay 120.000.000đ được tính từ ngày 17/6/2017 đến khi xét xử. Tiền lãi đối với khoản vay 200.000.000đ được tính từ ngày 15/12/2017 đến khi xét xử.

- Bị đơn bà Nguyễn Thị T trình bày: Chị Đặng Thị Phương G là cháu dâu có nhờ bà vay hộ tiền để kinh doanh. Ngày 17/4/2017 có vay số tiền 120.000.000đ, bà có ký vào giấy vay tiền, bà có giao cho anh C một số giấy tờ như anh C đã trình bày. Ngày 13/11/2017 bà có ký và điểm chỉ vào hợp đồng vay tiền với số tiền 200.000.000đ, thực chất là tiền gốc của khoản vay 120.000.000đ + tiền lãi + khoản vay thêm ( không rõ bao nhiêu vì chị G là người cầm tiền). Do không hủy giấy vay tiền nên anh C đã giữ lại và đòi cả hai khoản thì bà không đồng ý.

- Chị Đặng Thị Phương G trình bày: Chị có nhờ bà T đứng ra vay hộ tiền cho chị, chị có đi cùng nhưng không ký vào bất cứ giấy tờ gì, chỉ vay 2 lần tổng là 200.000.000đ, chị có trả lãi một vài lần nhưng không lấy giấy biên nhận.

+ Tại bản án dân sự sơ thẩm số:12/2018/DSST ngày 17/9/2018 huyện T đã áp dụng: Điều 463, 466, Điều 357 Bộ luật dân sự 2015; Khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Lê Viết C.

- Buộc bà Nguyễn Thị T phải trả cho anh Lê Viết C số tiền gốc là 320.000.000đ và tiền lãi là 36.133.000đ. Tổng cả gốc và lãi là 356.133.000đ. Ngoài ra bản án còn buộc anh C phải trả lại cho bà T một số giấy tờ, tuyên lãi suất chậm trả, thực hiện bản án theo luật thi hành án, tính án phí, tuyên quyền kháng cáo theo luật định.

+ Ngày 12, 27/9/2018 và ngày 8/10/2018 bà T kháng cáo với nội dung không nhất trí bản án sơ thẩm.

+ Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định của pháp luật. Quan điểm về nội dung vụ án là không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa hội đồng xét xử nhận định:

[1] Xét về hình thức đơn kháng cáo của bà T: Đơn của ông làm trong hạn luật định, đơn hợp lệ.

[2] Xét về nội dung đơn kháng cáo:

+ Bà T cho rằng bà chỉ đứng ra vay cả tiền gốc, tiền lãi là 200.000.000đ. Do bà quên không lấy lại giấy vay 120.000.000đ nên anh C đã lợi dụng mà khởi kiện đòi bà khoản tiền này. Tuy nhiên tại phiên tòa hôm nay, bà T cũng không xuất trình được tài liệu, chứng cứ gì mới, bản thân bà hai lần ký vào giấy vay mượn đều có cháu dâu là chị Phương G đi cùng, cẩn thận hơn thì lần sau lại còn được chứng thực tại phòng công chứng, vì vậy không có căn cứ nào để chấp nhận đơn kháng cáo của bà T được.

+ Đối với bản án sơ thẩm đã nhận định, đánh giá chứng cứ, tại hợp đồng vay tiền lần sau không thể hiện gì đến việc tính lãi hay liên quan gì đến số tiền vay lần đầu, không có biểu hiện gì việc bị cưỡng ép hay lừa dối, do đó án sơ thẩm đã buộc bà phải hoàn trả cả tiền gốc và lãi, (với mức lãi suất 1% /tháng ) cho anh C là phù hợp với pháp luật.

+ Từ những căn cứ, phân tích nêu trên, thì kháng cáo của bà T không được chấp nhận, cần buộc bà T phải trả cho anh C số tiền gốc đã vay 320.000.000đ và 36.133.000đ tiền lãi là phù hợp.

[3] Tại phiên tòa hôm nay, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên án sơ thẩm là phù hợp với pháp luật.

[4] Đối với các quyết định khác không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, cấp phúc thẩm không xem xét. Riêng việc tuyên lãi suất được điều chỉnh lại cho rõ hơn nhưng không cần phải ra quyết định sửa án sơ thẩm là phù hợp.

[5] Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà T kháng cáo không được chấp nhận thì phải chịu án phí dân sự phúc thẩm là phù hợp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 - Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Áp dụng: Điều 463, 466, Khoản 1 Điều 357 Bộ luật dân sự 2015; Khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Khoản 2 Điều 26; Khoản 1 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội.

+ Không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

+ Buộc bà Nguyễn Thị T phải trả cho anh Lê Viết C số tiền gốc là 320.000.000đ, tiền lãi là 36.133.000đ. Tổng là 356.133.000đ (Ba trăm năm mươi sáu triệu một trăm ba mươi ba nghìn đồng).

+ Khi bản án có hiệu lực pháp luật, anh C có đơn đề nghị thi hành án mà bà T chưa hoàn trả được số tiền trên thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.

+ Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7,7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

+ Về án phí phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị T phải chịu 300.000đ tiền án phí dân sự phúc thẩm. Xác nhận bà T đã nộp là 300.000đ theo biên lai thu tiền số 0001500 ngày 08/10/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện T.

+ Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

+ Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

313
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2019/DS-PT ngày 22/01/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:01/2019/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Phú Thọ
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:22/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về