Bản án 01/2018/HS-ST ngày 11/01/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ LỘC, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 01/2018/HS-ST NGÀY 11/01/2018 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 11 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mỹ Lộc  xét xử  sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 32/2017/HS-ST ngày 17 tháng 11 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 12 năm 2017 đối với bị cáo:

Đỗ Văn K, sinh ngày 08 tháng 7 năm 1990 tại Hà Nam; nơi cư trú: thôn H, xã V, huyện B, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch Việt Nam con ông Đỗ Văn M sinh năm 1959 và bà Trần Thị N sinh năm 1962; tiền sự: Không; tiền án: Không. Hiện tại ngoại. Có mặt

- Bị hại:  Bà Trần Thị T sinh năm 1954 ( đã chết)

- Người đại diện hợp pháp của bị hại là:

1. Cụ Trần Văn C sinh năm 1933 ( là bố đẻ bị hại ). Vắng mặt.

Địa chỉ: Khu phố 13, phường P, thành phố P, tỉnh Bình Thuận

2. Cụ Trần Thị C sinh năm 1934 ( là mẹ đẻ bị hại ). Vắng mặt.

Địa chỉ: Khu phố 13, phường P, thành phố P, tỉnh Bình Thuận.

3. Ông Đỗ Đăng K sinh năm 1945 ( là chồng bị hại ). Vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn T, xã T, huyện M, tỉnh Nam Định.

4. Chị Đỗ Thị Kim Thoa sinh năm 1982 ( là con bị hại ). Vắng mặt.

Địa chỉ: Xã L, huyện V, tỉnh Hưng Yên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 05 giờ 15 phút ngày 26/8/2017, Đỗ Văn K điều khiển xe mô tô của mình nhãn hiệu Wave RSX, biển kiểm soát 90B1 - 270.05 có dung tích xi lanh là 109 cm3, đi từ nhà ở thôn H, xã V, huyện B, tỉnh Hà Nam đến công ty cổ phần Lâm Sản, thành phố Nam Định để làm thuê theo hướng Phủ Lý - Nam Định. Kiệm không có giấy phép lái xe mô tô theo quy định để điều khiển xe mô tô. Khi đi đến đoạn đường tại Đại lộ Thiên Trường thuộc địa phận xóm 4, xã Mỹ Hưng, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, đoạn đường này có giải phân cách cứng, trên  đường đi chia làm ba làn đường (làn đường dành cho xe thô sơ giáp vỉa hè có vạch sơn liền mạch, cùng hai làn đường xe cơ giới được phân định bằng vạch sơn đứt đoạn), K điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 90B1 – 270.05 đi trên làn đường dành cho xe cơ giới tiếp giáp với làn đường dành cho xe thô sơ, K phát hiện thấy cách phía trước đầu xe mô tô của mình khoảng 18m có bà Trần Thị T, sinh năm 1954, ở xóm T, xã T, huyện M, tỉnh Nam Định điều khiển xe đạp đi cùng chiều ở làn đường dành cho xe cơ giới tiếp giáp với giải phân cách cứng và  đang có hướng chếch về phía làn đường  dành cho xe thô sơ,  K đã không giảm tốc độ mà điều khiển xe mô tô vượt xe đạp của bà T. Khi khoảng cách tới gần, do không làm chủ được tốc độ và tay lái, K đã điều khiển xe mô tô vào phía trong bên phải (phía vỉa hè) để vượt nhưng không kịp, phần đầu xe mô tô của K đã va chạm với phía sau xe đạp của bà T làm cả hai bị ngã ra đường. Hậu quả làm bà Trần Thị T bị thương nặng được đưa đi cấp cứu tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định và tử vong lúc 08 giờ cùng ngày.

Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 713/GĐKTHS ngày 30/8/2017 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Nam Định kết luận: Nguyên nhân nạn nhân Trần Thị T chết do đa chấn thương vỡ xương hộp sọ, chảy máu nội sọ.

Vật chứng thu giữ  gồm có: 01 xe máy  nhãn hiệu Wave RSX đã cũ biển kiểm soát 90B1 - 270.05 cùng chứng nhận đăng ký xe máy mang tên Đỗ Văn C, 01 xe đap Thống Nhất đã cũ của bà Trần Thị T. Đối với chiếc xe đạp Thống Nhất đã cũ, ông Đỗ Đăng Klà chồng của bà T  xác định không có thiệt hại về tài sản nên đã nhận lại chiếc xe đạp và không yêu cầu bồi thường gì.

Về phần bồi thường dân sự: Đỗ Văn K đã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho gia đình bà Trần Thị T là 60.000.000 đồng. Đại diện gia đình bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm và có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho Đỗ Văn K.

Tại phiên toà: Bị cáo khai nhận  toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Cáo trạng số 33/CTr-KSĐT ngày 17 tháng 11 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc truy tố Đỗ Văn K về tội: “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự 1999. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 202; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; Điều 60; Điều 41 Bộ luật hình sự 1999;

- Tuyên bố bị cáo Đỗ Văn K phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.

-  Xử phạt Đỗ Văn K  từ 30 đến 36 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 11/01/2018.

- Trả lại cho Đỗ Văn K 01 xe máy  nhãn hiệu Wave RSX  đã cũ biển kiểm soát 90B1 - 270.05 cùng chứng nhận đăng ký xe máy mang tên Đỗ Văn C .

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo có cơ hội cải tạo thành công dân có ích cho xã hội .

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mỹ Lộc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo tại phiên toà hoàn toàn phù hợp với các chứng cứ khác đã được thẩm tra tại phiên tòa như biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, kết luận giám định của phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh Nam Định và lời khai của những người làm chứng... Từ những chứng cứ trên, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 05 giờ 15 phút sáng ngày 26/8/2017, Đỗ Văn K không có giấy phép lái xe mô tô theo quy định nhưng đã có hành vi điều khiển xe mô tô có dung tích xi lanh là 109 cm3 và khi tham gia giao thông đã vượt xe không đúng quy định nên đã xô vào phía sau xe đạp của bà Trần Thị T gây tai nạn giao thông hậu quả nghiêm trọng làm bà Trần Thị T bị chết. Đỗ Văn K đã vi phạm khoản 9 Điều 8 và khoản 2 Điều 14 Luật giao thông đường bộ năm 2008. Hành vị của bị cáo đã phạm tội: “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 2 Điều 202 của BLHS 1999.

[3] Đỗ Văn K không được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép lái xe mô tô. Do ý thức tham gia giao thông kém, do sự chủ quan, cẩu thả nên bị cáo đã điều khiển mô tô có dung tích xi lanh là 109 cm3  để đi làm hàng ngày. Chính hành vi liều lĩnh của bị cáo đã dẫn đến gây tai nạn giao thông làm bà Trần Thị T bị chết. Hành vi của bị cáo đã xâm hại đến trật tự an toàn giao thông đường bộ  nên việc đưa bị cáo ra xét xử là cần thiết để đảm bảo tính răn đe, giáo dục, cải tạo đối với bị cáo đồng thời phát huy việc giáo dục phòng ngừa chung.

[4] Hội đồng xét xử đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo như sau: Bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại; trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự 1999. Người đại diện của  bị hại đề nghị miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự 1999. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[5] Xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nhân thân tốt và có nơi cư trú rõ ràng; bị cáo phạm tội do lỗi vô ý; bị hại là bà Trần Thị T điều khiển xe đạp đi trên phần đường của xe cơ giới, khi chuyển làn đường không quan sát đã vi phạm khoản 1 Điều 9 Luật giao thông đường bộ nên cũng có lỗi để xảy ra vụ tai nạn giao thông; đại diện hợp pháp của bị hại đã đề nghị miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Vì vậy để thể hiện tính nhân đạo của pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự 1999 cho bị cáo được hưởng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật quy định. Đồng thời Hội đồng xét xử thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà chỉ cần áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo để bị cáo tự cải tạo dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền nơi cư trú.

[6] Vật chứng:   01 xe máy  nhãn hiệu Wave RSX đã cũ biển kiểm soát 90B1 - 270.05 không phải là công cụ, phương tiện dùng vào việc thực hiện tội phạm nên trả lại cho Đỗ Văn K cùng chứng nhận đăng ký xe máy mang tên Đỗ Văn C .

[7] Về trách nhiệm dân sự: Đại diện của  bị hại không có yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

[8] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 202; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; Điều 60; Điều 41 Bộ luật hình sự 1999; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án

1. Tuyên bố bị cáo Đỗ Văn K phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.

2.  Xử phạt Đỗ Văn K  30 ( Ba mươi ) tháng  tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 11/01/2018. Giao Đỗ Văn K cho Uỷ ban nhân dân xã V, huyện B, tỉnh Hà Nam giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

3. Trả lại cho Đỗ Văn K 01 xe máy  nhãn hiệu Wave RSX  đã cũ biển kiểm soát 90B1 - 270.05 và 01 chứng nhận đăng ký xe máy mang tên Đỗ Văn C có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 20/11/2017 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mỹ Lộc và Chi cục thi hành án dân sự huyện Mỹ Lộc

4. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Đỗ Văn K phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

Trong hạn 15 ngày: Bị cáo Đỗ Văn K có quyền kháng cáo ngày kể từ ngày tuyên án; cụ Trần Văn C, cụ Trần Thị C, ông Đỗ Đăng K, chị  Đỗ Thị Kim T có quyền kháng cáo kể từ ngày nhận được bản án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án thì  bị cáo có quyền  tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án, thời hiệu thi hành án thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2018/HS-ST ngày 11/01/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:01/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Lộc - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về