TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA SÚP, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 01/2018/HS-ST NGÀY 04/01/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP VẬT LIỆU NỔ
Ngày 04 tháng 01 năm 2018, Tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Ea Súp xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 53/2017/HSST ngày 15 tháng 12 năm 2017, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2017/QĐXX-HS ngày 20 tháng 12 năm 2017 đối với bị cáo:
1. Họ và tên: Hoàng Thị T - Sinh năm 1960, tại tỉnh Nghệ An
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn A, xã I, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Trình độ học vấn: 7/12; Nghề nghiệp: Làm nông; Con ông Hoàng Văn T (Đã chết); Con bà Hồ Thị H, sinh năm 1926 hiện đang sinh sống tại xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An. Bị cáo có chồng là Trương Văn T, sinh năm 1959, có 05 con, con lớn nhất sinh năm 1983, con nhỏ sinh năm 1999.Tiền sự: Không; Tiền án: Không
Bị cáo được tại ngoại theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 23 ngày 25/7/2017 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Ea Súp (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).
2. Người làm chứng:
- Anh Lương Thanh S, sinh năm 1994 (Vắng mặt) Trú tại: Thôn B, xã I, huyện E, tỉnh Đắk Lắk
- Anh Lang Văn L, sinh năm 1990 (Vắng mặt) Trú tại: Thôn Đ, xã I, huyện E, tỉnh Đắk Lắk
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào năm 2015 Hoàng Thị T có mua của một người đàn ông (Không rõ tên tuổi, địa chỉ) 06 cây thuốc nổ công nghiệp Amônit, hình trụ bọc giấy màu nâu ký hiệu là AD1. ø32.200g.21 có tổng trọng lượng 1,2kg; 50 kíp nổ; 05m dây cháy chậm, với số tiền 1.000.000 đồng, mục đích về đào giếng. Sau khi mua số vật liệu nổ này, Hoàng Thị T cất giấu vào góc bếp nhà mình. Trưa ngày 29/6/2017 Lương Thanh S và Lang Văn L đến nhà Hoàng Thị T hỏi mua vật liệu nổ về đánh cá, Hoàng Thị T đồng ý bán và dùng kéo cắt đôi 06 cây thuốc nổ và cắt d y cháy chậm ra một số đoạn dài từ 03 – 04 cm, rồi bán cho S và L 02 thỏi thuốc nổ (được cắt ra từ 01 cây thuốc nổ), 08 kíp nổ, 08 đoạn dây cháy chậm được cắt ra từ (05m dây cháy chậm) với số tiền 400.000 đồng. Sau khi mua thuốc nổ về S và L đã chế tạo 08 quả nổ và đem đi gây án ở một vụ án khác. Quá trình điều tra Công an huyện Ea Súp chỉ thu giữ được 02 quả nổ tự chế, đường kính 4,5cm; 03 ống kim loại màu trắng dài 3,9cm, đường kính 0,7cm, một đầu ống rỗng; 03 đoạn dây cháy chậm. Ngày 08/7/2017 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Ea Súp tiến hành khám xét khẩn cấp tại nhà Hoàng Thị T phát hiện và thu giữ: 10 thỏi hình trụ bọc giấy màu nâu, bị cắt đôi, trên thân có ký hiệu AD1. ø32.200g.21, bên trong chứa chất bột màu trắng ngà; 42 ống kim loại màu trắng, dài 3,9cm, đường kính 0,7cm, một đầu ống rỗng; 01 cuộn dây cháy chậm dài 4,87m; 08 đoạn dây cháy chậm, mỗi đoạn dây dài 3,4cm; 01 chiếc kéo bằng kim loại và 400.000đồng là tiền do Hoàng Thị T bán vật liệu nổ mà có.
Bản kết luận giám định số: 2349/C54B ngày 13/7/2017 của Phân viện khoa học hình sự, thuộc tổng cục cảnh sát tại thành phố Hồ Chí Minh kết luận: 02 quả hình tròn đường kính 4,5cm được bọc giấy nylon, bên trong chứa chất bột màu trắng ngà gửi giám định đều là thuốc nổ Công nghiệp Amônit. Khối lượng quả ký hiệu 01 là 46,5g; khối lượng quả ký hiệu 02 là 44,2g; 03 đoạn dây gửi giám định đều là dây cháy chậm. Dây cháy chậm dùng để chuyển lửa gây nổ kíp nổ để kích thuốc nổ; 03 ống kim loại màu trắng gửi giám định đều là kíp nổ đốt số 8 vỏ nhôm. Kíp nổ đốt dùng để kích nổ các loại thuốc nổ. Tất cả các mẩu vật gửi giám định đều còn tính năng sử dụng.
Bản kết luận giám định số: 2377/C54B ngày 13/7/2017 của Phân viện khoa học hình sự, thuộc tổng cục cảnh sát tại thành phố Hồ Chí Minh kết luận: 10 thỏi hình trụ bọc giấy màu nâu có ký hiệu AD1. ø32.200g.21 gửi giám định đều là thuốc nổ Công nghiệp Amônit. Tổng khối lượng 1,011kg (Bao gồm cả giấy bọc màu nâu bên ngoài); 01 cuộn dây và 08 đoạn dây gửi giám định đều là dây cháy chậm. Dây cháy chậm dùng để chuyển lửa gây nổ kíp nổ để kích thuốc nổ; 42 ống kim loại màu trắng gửi giám định đều là kíp nổ đốt số 8 vỏ nhôm. Kíp nổ đốt dùng để kích nổ các loại thuốc nổ.
Bản kết luận giám định bổ sung số: 3620/C54B ngày 13/10/2017 của Phân viện khoa học hình sự, thuộc tổng cục cảnh sát tại thành phố Hồ Chí Minh kết luận: 10 thỏi thuốc nổ Công nghiệp Amônit, có ký hiệu AD1. ø32.200g.21 gửi giám định có khối lượng thuốc nổ là 933,1 gram, khối lượng giấy bọc bên ngoại là 77,9 gram; 01 cuộn dây cháy chậm gửi giám định có khối lượng là 132,2 gram; 01 đoạn dây cháy chậm gửi giám định có khối lượng là 0,8 gram. Tổng khối lượng của 07 đoạn dây cháy chậm là 6,2 gram. Khối lượng 01 đoạn dây cháy chậm bị tiêu hao khi giám định theo kết luận giám định số: 2377/C54B ngày 13/7/2017 là 0,9 gram; 01 kíp nổ đốt số 8 vỏ nhôm màu trắng gửi giám định có khối lượng là 1,8 gram. Tổng khối lượng của 42 kíp nổ đốt số 8 vỏ nhôm màu trắng là 74,2 gram.
Cáo trạng số: 01/KSĐT – HS ngày 14 tháng 12 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea Súp truy tố bị cáo Hoàng Thị T về tội “Tàng trữ trái phép vật liệu nổ” theo khoản 1 Điều 232 Bộ luật hình sự năm 1999. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Hoàng Thị T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea Súp đã nêu. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea Súp trình bày quan điểm luận tội đối với bị cáo Hoàng Thị T: Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Kiểm sát viên giữ nguyên nội dung cáo trạng số: 01/KSĐT- HS ngày 14/12/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea Súp.
Về tội danh đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hoàng Thị T phạm tội “Tàng trữ trái phép vật liệu nổ” theo quy định tại khoản 1 Điều 232 của Bộ luật hình sự năm 1999.
Về hình phạt: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 232; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; khoản 1, khoản 2 Điều 60 của Bộ luật hình sự năm 1999. Nghị quyết số: 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7 và điểm x khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo mức án từ 15 đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 30 đến 36 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đối với người đàn ông (Không rõ tên tuổi, địa chỉ) bán vật liệu nổ cho Hoàng Thị T, Cơ quan Công an đang điều tra, xác minh, khi nào bắt được sẽ xử lý sau.Xét hành vi mua bán trái phép vật liệu nổ của Lang Văn L và Lương Thanh S chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự nên đề nghị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Ea Súp ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với L và S là phù hợp.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự; khoản 1, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Đề nghị tịch thu giao cho Cơ quan Công an huyện Ea Súp quản lý và phối hợp với cơ quan chức năng huyện E tiêu hủy theo quy định pháp luật:
+) 10 thỏi chất nổ công nghiệp Amônit, hình trụ bọc giấy màu nâu, ký hiệu AD1. ø32.200g.21, có tổng khối lượng 1.011kg;
+) 45 kíp nổ đốt số 8 vỏ nhôm;
+) 01 cuộn dây cháy chậm nàu xám đen dài 4,87m;
+) 10 đoạn dây cháy chậm nàu xám đen, mỗi đoạn dài 3,4cm;
+) 02 gói chất rắn màu trắng ngà (Thuốc nổ Amônit) có tổng khối lượng90,7g.
Tất cả có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng của Cơ quan Công an huyện Ea Súp ngày 03/01/2018. Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc kéo bằng kim loại dài 19cm; Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 400.000 đồng do bị cáo phạm tội mà có. Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì với quan điểm luận tội của Kiểm sát viên. Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:[1] Về hành vi: Quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định pháp luật.
[2] Xét lời khai nhận tội của bị cáo Hoàng Thị T tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; phù hợp với biên bản khám xét khẩn cấp tại nhà Hoàng Thị T và lời khai của người làm chứng; vật chứng thu giữ được và những chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án thể hiện. Năm 2015 Hoàng Thị T đã mua của một người đàn ông (Không rõ tên tuổi, địa chỉ) 06 cây thuốc nổ công nghiệp Amônit, hình trụ bọc giấy màu nâu ký hiệu là AD1. ø32.200g.21 có tổng trọng lượng 1,2kg; 50 kíp nổ đốt số 8 vỏ nhôm; 05m dây cháy chậm về tàng trữ trong nhà. Ngày 08/7/2017 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Ea Súp phát hiện, lập biên bản khám xét khẩn cấp tại nhà Hoàng Thị T thu giữ 10 thỏi hình trụ bọc giấy màu nâu, bị cắt đôi, trên thân có ký hiệu AD1. ø32.200g.21, bên trong chứa chất bột màu trắng ngà; 42 ống kim loại màu trắng, dài 3,9cm, đường kính 0,7cm, một đầu ống rỗng; 01 cuộn dây cháy chậm dài 4,87m; 08 đoạn dây cháy chậm, mỗi đoạn dây dài 3,4cm; 01 chiếc kéo bằng kim loại và 400.000đồng. Số lượng thuốc nổ Amônit còn lại thu giữ được theo kết luận giám định là 1,0238kg. Như vậy, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Hoàng Thị T phạm tội “Tàng trữ trái phép vật liệu nổ” được quy định tại khoản 1 Điều 232 Bộ luật hình sự. Khoản 1 Điều 232 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định:
1/ Người nào chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.
[3] Xét quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea Súp và quan điểm luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa về tội danh, mức hình phạt và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là có căn cứ phù hợp với quy định của pháp luật nên cần chấp nhận.
[4] Xét thấy vật liệu nổ là một nguồn nguy hiểm cao độ nên hành vi tàng trữ trái phép vật liệu nổ của bị cáo là rất nguy hiểm, nếu không bảo đảm các điều kiện nghiêm ngặt dễ dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Vật liệu nổ là một loại hàng cấm không được phép lưu hành, chính vì vậy pháp luật nghiêm cấm mọi hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép vật liệu nổ là trực tiếp xâm phạm đến việc độc quyền quản lý của Nhà nước, ai vi phạm sẽ bị pháp luật nghiêm trị. Vì vậy, Hội đồng xét xử nhận thấy cần xử phạt bị cáo với mức án đủ nghiêm tương xứng với mức độ hành vi phạm tội, để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên xét thấy bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo sống ở vùng sâu, vùng xa kinh tế khó khăn nên nhận thức pháp luật có phần hạn chế. Bị cáo có bố là Hoàng Văn T là liệt sỹ; có chị gái là Hoàng Thị D tham gia cách mạng, thương binh 4/4 được nhà nước tặng Huân chương kháng chiến hạng nhì.
Nên Hội đồng xét xử cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999. Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7 và điểm x khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Mặt khác bị cáo có nhân thân tốt, nơi cư trú ổn định, rõ ràng nên không cần áp dụng hình phạt buộc phải cách ly với xã hội mà cho bị cáo tự cải tạo ngoài xã hội dưới sự giám sát giáo dục của chính quyền địa phương và gia đình bị cáo cũng đủ tác dụng cải tạo, giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa tội phạm. Đối với người đàn ông (Không rõ tên tuổi, địa chỉ) bán vật liệu nổ cho Hoàng Thị T, Cơ quan Công an huyện Ea Súp đang điều tra, xác minh, khi nào bắt được sẽ xử lý sau là phù hợp. Xét thấy hành vi mua bán trái phép vật liệu nổ của Lang Văn L và Lương Thanh S chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự nên đề nghị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Ea Súp ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với L và S.
[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 41 Bộ luật hình sự; khoản 1, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Xét thấy việc xử lý vật chứng như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp nên cần chấp nhận.
[6] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Bị cáo Hoàng Thị T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hoàng Thị T phạm tội “Tàng trữ trái phép vật liệu nổ”.
- Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 232; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; khoản 1, khoản 2 Điều 60 Bộ luật hình sự 1999. Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7 và điểm x khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Hoàng Thị T 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù tưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo Hoàng Thị T cho Uỷ ban nhân dân xã I, huyện E, tỉnh Đăk Lăk giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.
- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự; khoản 1, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Tuyên tịch thu giao cho Cơ quan Công an huyện Ea Súp quản lý và phối hợp với cơ quan chức năng huyện E tiêu hủy:
+) 10 thỏi chất nổ công nghiệp Amônit, hình trụ bọc giấy màu nâu, ký hiệu AD1. ø32.200g.21, có tổng khối lượng 1.011kg;
+) 45 kíp nổ đốt số 8 vỏ nhôm;
+) 01 cuộn dây cháy chậm nàu xám đen dài 4,87m;
+) 10 đoạn dây cháy chậm nàu xám đen, mỗi đoạn dài 3,4cm.
+) 02 gói chất rắn màu trắng ngà (Thuốc nổ Amônit) có tổng khối lượng 90,7g. Tất cả có đặc điểm như trong biên bản giao, nhận vật chứng của Cơ quan Công an huyện Ea Súp ngày 03/01/2018. Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc kéo bằng kim loại dài 19cm, như trong biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Công an huyện Ea Súp với Chi cục thi hành án dân sự huyện E. Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 400.000 đồng do bị cáo phạm tội mà có.
- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Bị cáo Hoàng Thị T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án 01/2018/HS-ST ngày 04/01/2018 về tội tàng trữ trái phép vật liệu nổ
Số hiệu: | 01/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ea Súp - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/01/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về