Bản án 01/2018/HS-PT ngày 01/02/2018 về trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 01/2018/HSPT NGÀY 01/02/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 01 tháng 02 năm 2018, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số:01/2018/TLPT- HS ngày 04 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo Nguyễn Văn T (tên gọi khác: N), do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 24/2017/HS-ST ngày 01 tháng 12 năm 2017 của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Quảng Trị.

- Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Văn T (tên gọi khác: N), sinh ngày 26/4/1991, nơi sinh: Tại V, Quảng Trị; nơi ĐKNKTT và chổ ở: Thôn Tân T, xã Vĩnh T, huyện V, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn S và bà Phan Thị V; vợ, con chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bản án số 30/2010/HSST ngày 30/10/2010 của Tòa án nhân dân huyện V xử phạt 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 26 tháng 26 ngày về tội “trộm cắp tài sản”, đã được xóa án tích; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 21/9/2017 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chiều ngày 09/9/2017, khi đang chơi điện tử tại quán internet A ở thôn Đức X, xã Vĩnh T, huyện V, Nguyễn Văn T thấy anh Phan Ngọc T1 điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Exciter, màu trắng - đỏ biển kiểm soát 74L1 - 193.85 đến quán chơi. Khoảng 16 giờ cùng ngày, T không chơi nữa vì hết tiền. Lúc này, T nảy sinh ý định mượn xe của anh T1 đi cầm cố lấy tiền tiêu xài nên đã nói dối với anh T1 “cho tau mượn xe đi qua H tý”. Anh T1 nghĩ T có quen biết, mượn xe đi một lúc rồi về trả nên đồng ý và lấy chìa khóa xe đưa cho T. Sau khi mượn được xe, T đưa chiếc xe trên vào khu vực gần chợ Đ, thành phố Đ,  tỉnh  Quảng  Trị  bán  cho  một  người  phụ  nữ  không  quen  biết  với  giá 13.500.000 đồng, số tiền này T đã tiêu xài cá nhân hết. Ngày 19/9/2017, anh Phan Ngọc T1 có đơn trình báo sự việc với cơ quan công an, quá trình xác minh Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản kết luận định giá số: 581/KL - HĐ ĐG ngày 20/9/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện V kết luận: Xe mô tô biển kiểm soát 74L1 - 193.85 có trị giá 41.053.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 24/2017/HSST ngày 01/12/2017, TAND huyện V, tỉnh Quảng Trị đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T (tên gọi khác: N), phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 139; điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS, xử phạt bị cáo: Nguyễn Văn T (N) 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 21/9/2017.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 06/12/2017, bị cáo Nguyễn Văn T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do: Tòa án nhân dân huyện V xử phạt bị cáo 24 tháng tù là mức án quá cáo so với hành vi phạm tội của bị cáo.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh cho rằng: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ tính chất, mức độ hành vi phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng khoản 1 Điều 139; điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS, xử phạt bị cáo: Nguyễn Văn T 24 tháng tù là mức án thỏa đáng, không có cơ sở giảm nhẹ hơn nữa, đề nghị HĐXX  căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015: Bác kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T phù hợp các Điều 331 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về chủ thể và thời hạn kháng cáo nên Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội: Lời khai của bị cáo Nguyễn Văn T tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp lời khai của bị cáo tại cấp sơ thẩm, phù hợp lời khai của người bị hại, kết luận định giá tài sản và các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, đủ cơ sở kết luận: Chiều ngày 09/9/2017, bị cáo Nguyễn Văn T đã có hành vi dùng thủ đoạn gian dối làm cho anh Phan Ngọc T1 tin nhầm nên đã giao chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Exciter, màu trắng - đỏ biển kiểm soát 74L1 - 193.85 có trị giá 41.053.000 đồng cho bị cáo, sau đó bị cáo đưa chiếc xe trên vào khu vực gần chợ Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị bán cho một người phụ nữ không quen biết với giá 13.500.000 đồng. Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 139 BLHS 1999 như án cấp sơ thẩm đã xét xử là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn T là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác và gây mất trật tự, trị an xã hội trên địa bàn nên cần xử phạt nghiêm minh để giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và phòng ngừa chung. Bị cáo Nguyễn Văn T không có tiền án, tiền sự nhưng lại có nhân thân xấu (ngày 30/10/2010 bị Tòa án nhân dân huyện V xử phạt 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”) ; bị cáo “thành khẩn khai báo” nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Trên cơ sở xem xét về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 24 tháng tù là mức án thỏa đáng, đúng theo quy định của  pháp luật. Tại phiên toà hôm nay, bị cáo cho rằng mình cần được hưởng các tình tiết giảm nhẹ đó là đã có hành vi đầu thú, bố bị cáo có kỷ niệm chương “Bảo vệ an ninh Tổ quốc”, HĐXX thấy rằng: Hành vi của bị cáo do bị hại tố cáo, sau khi bị phát hiện hành vi phạm tội bị cáo không lên cơ quan công an trình diện nên không thể áp dụng tình tiết đầu thú; về kỷ niệm chương “Bảo vệ an ninh Tổ quốc” của bố bị cáo, pháp luật không quy định là tình tiết giảm nhẹ nên HĐXX không có cơ sở để áp dụng; ngoài ra, bị cáo không cung cấp thêm được tài liệu, chứng cứ gì để bổ sung cho kháng cáo của mình nên Hội đồng xét xử không thể xem xét. Từ những phân tích trên, HĐXX xét thấy không thể thoả mãn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết về án phí, lệ phí Tòa án.

Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T (tên gọi khác: N) và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Áp dụng khoản 1 Điều 139; điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS 1999, xử phạt bị cáo: Nguyễn Văn T (Núi) 24 (hai mươi bốn) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 21/9/2017.

2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015; điểm b khoản 2 Điều 23 của Nghị  quyết  326/2016/UBTVQH14  ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Văn T (N) phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

350
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2018/HS-PT ngày 01/02/2018 về trộm cắp tài sản

Số hiệu:01/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về