Bản án 01/2018/HNGĐ-ST ngày 31/01/2018 về không công nhận vợ chồng và tranh chấp nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MÙ CANG CHẢI - TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 01/2018/HNGĐ-ST NGÀY 31/01/2018 VỀ KHÔNG CÔNG NHẬN VỢ CHỒNG VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Trong ngày 31 tháng 01 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mù Cang Chải xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 29/2017/TLST- HNGĐ ngày 23/11/ 2017 về việc: Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2018/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 01 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: chị Lý Thị D ( tên gọi khác Lý Thị Gi ) sinh năm 1989; trú tại: bản M, xã P, huyện M, tỉnh Yên Bái. Có mặt.

2. Bị đơn: anh Giàng A Ch sinh năm 1987; trú tại: bản M, xã P, huyện M,tỉnh Yên Bái; hiện đang chấp hành án tại: Trại giam Ninh Khánh – Tổng cục V26– Bộ công an. Vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

3. Người phiên dịch tiếng Mông: ông Thào A Dờ- cán bộ Toà án nhân dân huyện Mù Cang Chải. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 21 tháng 11 năm 2017 và biên bản lấy lời khai ngày 27 tháng 11 năm 2017, nguyên đơn là chị Lý Thị D trình bày: chị và anh Giàng A Ch chung sống như vợ chồng từ năm 2006, có tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán tại địa phương, không đăng ký kết hôn. Trong quá trình chung sống, chị D và anh Ch chung sống hạnh phúc đến năm 2011 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hợp, anh Ch có biểu hiện mua bántrái phép chất ma túy, chị D khuyên can không được mua bán chất ma túy nhưng anh Ch không nghe, nên xảy ra cãi chửi xô sát nhau. Đến năm 2011 anh Ch phạm tội mua bán trái phép chất ma tuý và bị Toà án nhân dân tỉnh Sơn La xử phạt 15 năm  tù, hiện đang chấp hành án tại Trại giam Ninh Khánh – Tổng cục V26 – Bộ công an, khi anh Ch phạm tội và đi chấp hành án chị D cho rằng bản thân không còn ai dựa dẫm, mẹ chồng lại không quan tâm, đến năm 2013 chị Dà đã về ở cùng với bố mẹ đẻ tại bản H, xã L, huyện M, tỉnh Yên Bái. Do đó chị D xác định tình cảm vợ chồng đã không còn và không thể tiếp tục chung sống như vợ chồng với anh Ch được nữa nên đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Giàng A Ch.

Tại bản tự khai khai ngày 26/12/2017 của bị đơn anh Giàng A Ch thừa nhận có chung sống như vợ chồng với chị Lý Thị D từ năm 2006, nhưng không đăng ký kết hôn; trong thời gian chung sống có xảy ra mâu thuẫn nguyên nhân là do năm2011 anh Ch phạm tội mua bán trái phép chất ma tuý và bị Toà án nhân dân tỉnhSơn La xử phạt 15 tù về tội mua bán trái phép chất ma tuý. Khi anh Ch đi chấp hành án chị D có đến thăm, tuy nhiên chỉ động viên không nói đến việc ly hôn, nay chị D làm đơn xin ly hôn anh Ch, anh Ch xác định tình cảm vẫn còn nên không nhất trí ly hôn. Hiện nay anh Ch đang chấp hành án tại Trại giam Ninh Khánh – Tổng cục V26 – Bộ công an và đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Về con chung: chị Lý Thị D và anh Giàng A Ch đều khai thống nhất có 02con chung là Giàng Thị S, sinh ngày 24/02/2009 và Giàng Thị V sinh ngày24/7/2011 hiện nay các con đang sống cùng bà nội và học tập tại bản Mý Háng Tâu, xã Púng Luông, huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái. Nếu Ly hôn chị D đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng Giàng Thị V sinh năm 2009, còn Giàng Thị S để anh Ch trực tiếp nuôi dưỡng không ai phải cấp dưỡng về việc nuôi con chung. anh Ch đang chấp hành án nên anh Ch đề nghị Toà án giải quyết để chị D trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung khi nào anh Ch chấp hành án xong sẽ đề nghị Toà ángiải quyết việc chăm sóc và nuôi dưỡng con sau, nếu chị D không đủ điều kiện nuôi dưỡng thì để hai con cho ông bà nội nuôi dưỡng. Tại biên bản lấy lời khai cháu Giàng Thị S vào ngày 10/01/2018 thì nếu bố mẹ ly hôn cháu có nguyện vọng được ở với mẹ.

Về tài sản chung: Chị Lý Thị D không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 10/01/2018 thể hiện chị Lý Thị D và anh Giàng A Ch sống chung như vợ chồng từ năm 2006, không có đăng ký kết hôn. Có hai con chung như chị D và anh Ch trình bày.

Tại phiên toà, nguyên đơn giữ nguyên quan điểm và yêu cầu của mình.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký tòa án đảm bảo đúng quy định. Nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của pháp luật trong việc tham gia tố tụng. Bị đơn đang chấp hành án tại Trại giam Ninh Khánh – Tổng cục V26 – Bộ công an và đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Tòa án tuyên bố không công nhận chị Lý Thị D và anh Giàng A Ch là vợ chồng và giải quyết việc nuôi dưỡng conchung là giao các con chưa thành niên cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng để đảm bảo quyền lợi của các con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Bị đơn anh Giàng A Ch hiện đang chấp hành án tại Trại giam Ninh Khánh – Tổng cục V26 – Bộ công an. Do đó anh Giàng A Ch không thể tham gia tố tụng tại Tòa án và đã có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt. Vì vậy vụ án không tiến hành hoà giải theo quy định tại Khoản 2 Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên toà, bị đơn vắng mặt và đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, do đó Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt anh Giàng A Ch.

[2] Về quan hệ hôn nhân: chị Lý Thị D và anh Giàng A Ch đều thừa nhận chung sống với nhau như vợ chồng, nhưng không đăng ký kết hôn, nay chị D có yêu cầu ly hôn nhưng anh Ch không nhất trí. Tòa án thấy rằng chị Lý Thị D và anh Giàng A Ch có đủ điều kiện kết hôn, nhưng không đăng ký kết hôn nên đã vi phạm Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình, vì vậy quan hệ hôn nhân của chị D và anh Ch là không hợp pháp. Tòa án căn cứ khoản 1 Điều 14 và khoản 2 Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình, tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Lý Thị D và anh Giàng A Ch.

[3] Về con chung: chị Lý Thị D và anh Giàng A Ch đều khai thống nhất có02 con chung là Giàng Thị S sinh ngày 24/02/2009 và Giàng Thị V sinh ngày24/7/2011. Đối với việc nuôi dưỡng con chung thì chị D và anh Ch không thống nhất được với nhau, tuy nhiên do anh Ch hiện đang chấp hành án nên không thểquan tâm, chăm lo, nuôi dưỡng cho các con. Do đó cần giao cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 con chung, nhằm bảo đảm cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các con, đồng thời cũng phù hợp với nguyện vọng của các con. Khi anh Chchấp hành xong hình phạt tù và yêu cầu Toà án giải quyết việc thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng con chung thì Tòa án thụ lý, giải quyết sau. Việc cấp dưỡng nuôi con chị D không yêu cầu nên anh Ch không phải đóng góp cấp dưỡng nuôi con, nhưng đảm bảo cho anh Ch được quyền thăm nom con mà không ai được cản trở.

[4] Về án phí: các đương sự thuộc diện hộ nghèo; đồng bào dân tộc thiểu số ở các xã có điều kiện kinh tế- xã hội đặc biệt khó khăn, nên Tòa án căn cứ vào điểnm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án để miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo quyđịnh của pháp luật cho các đương sự.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng khoản 1 Điều 14; khoản 2 Điều 53; Điều 15; Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

- Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

1) Về quan hệ hôn nhân: Tuyên bố không công nhận chị Lý Thị D (tên gọi khác Lý Thị Gi) và anh Giàng A Ch là vợ chồng.

2) Về con chung: Giao cho chị Lý Thị D trực tiếp nuôi dưỡng các con chung Giàng Thị S Sinh ngày 24/02/2009 và Giàng Thị V sinh ngày 24/7/2011; anh Giàng A Ch không phải đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3) Về án phí: Miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm cho các đương sự.

4) Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành  án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yên cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

262
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2018/HNGĐ-ST ngày 31/01/2018 về không công nhận vợ chồng và tranh chấp nuôi con chung

Số hiệu:01/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mù Căng Chải - Yên Bái
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về