TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ PĂH, TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN 01/2018/HNGĐ-ST NGÀY 11/01/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 11 tháng 01 năm 2018, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 90/2017/TLST-HNGĐ ngày 05/10/2017về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 90/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 12 năm 2017 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: bà Đàm Thị T, sinh năm 1964;
Địa chỉ: thôn 8, xã I, huyện C, tỉnh Gia Lai. (có mặt)
2. Bị đơn: ông Trần Văn H, sinh năm 1962;
Địa chỉ: thôn 8, xã I, huyện C, tỉnh Gia Lai.(có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện đề ngày 04/10/2017 cùng các tài liệu có tại hồ sơ và tại phiên tòa, nguyên đơn là bà Đàm Thị T trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Bà T với ông H tự nguyện tìm hiểu nhau, được gia đình hai bên tổ chức lễ cưới theo phong tục cổ truyền của dân tộc và chung sống vợ chồng với nhau vào năm 1980. Sau khi kết hôn ông bà chung sống tại tỉnh H được 5 năm, đến năm 1986 thì chuyển vào sinh sống tại nông trường xã I (nay là thôn 8, xã I, huyện C, tỉnh Gia Lai). Trong thời gian chung sống thì ông bà thường xuyên xẩy ra mâu thuẫn, ông H là người chồng vũ phu, thường xuyên đánh đập bà. Ngoài ra,ông H còn uống rượu và chơi bài bạc, không chăm lo cho gia đình, bà T đã nhẫn nhịn để níu kéo hạnh phúc gia đình và nuôi dạy con cái trưởng thành, nhưng ông H vẫn chứng nào tật đó không chịu sửa đổi. Từ tháng 6/2017 đến nay bà đã sống ly thân với ông H. Nay bà T không còn tình cảm với ông H nữa, bà đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông H.
Về con chung: bà T và ông H có 03 con chung là: Trần Thị H, sinh năm 1985; Trần Văn T, sinh năm 1989; Trần Thị L, sinh năm 1990. Nay các con chung của đều đã thành niên, có khả năng lao động nên bà T không yêu cầu Tòa án phân chia nghĩa vụ nuôi con.
Về tài sản chung và các nghĩa vụ chung khác: bà T không yêu cầu Toà án giải quyết.
Ngoài ra, bà T không có yêu cầu gì khác.
Tại các tài liệu có tại hồ sơ và tại phiên tòa, bị đơn là ông Trần Văn H trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Ông và bà T tự nguyện tìm hiểu nhau và được gia đình hai bên tổ chức lễ cưới theo phong tục cổ truyền vào năm 1980, sau đó ông bà đến Ủy ban nhân dân xã Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An để đăng ký kết hôn với nhau vào năm 1980, lúc đó chỉ có bà T vào làm thủ tục còn ông đứng ngoài, nhưng vì thời gian đã lâu nay giấy chứng nhận kết hôn đã bị mất. Sau khi kết hôn ông bà chung sống rất hạnh phúc, thỉnh thoảng có cãi nhau, mâu thuẫn với nhau, trước đây khoảng năm 2010 ông phát hiện bà T có quan hệ bất chính với người khác, nhưng ông đã tha thứ cho bà T để vợ chồng chung sống bình thường với nhau. Đến tháng 6/2017 giữa ông bà có xẩy ra cãi nhau nên ông có tát tai bà mấy cái, bà T tức giận nên bỏ nhà đi cho đến nay. Ông H đã gọi điện nói bà quay về để vợ chồng hòa giải đ oàn tụ nhưng bà không chịu quay về, nay bà T làm đơn ly hôn ông vẫn muốn vợ chồng đoàn tụ nên ông không đồng ý ly hôn với bà T.
Về con chung: Giữa ông bà có 03 con chung là: Trần Thị H, sinh năm 1985; Trần Văn T, sinh năm 1989; Trần Thị L, sinh năm 1990. Nay các con chung đã thành niên, có khả năng lao động nên ông không yêu cầu Tòa án phân chia nghĩa vụ nuôi con.
Về tài sản chung và các nghĩa vụ chung khác: ông H không yêu cầu Toà án giải quyết.
Ngoài ra ông H không có yêu cầu gì khác.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai phát biểu ý kiến:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và các đương sự là đảm bảo theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Bản án 01/2018/HNGĐ-ST ngày 11/01/2018 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 01/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chư Păh - Gia Lai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 11/01/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về