Bản án 01/2018/DS-ST ngày 23/01/2018 về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa và đòi lại tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 01/2018/DS-ST NGÀY 23/01/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA VÀ ĐÒI LẠI TÀI SẢN

Ngày 23/01/2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 187/2016/TLST-DS ngày 28/12/2016 về việc tranh chấp hợp đồng mua hàng hóa và đòi lại tài sản giữa cácđương sự:

- Nguyên đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên HDP, địa chỉ: BSB Khu phố TC, thị trấn SS, huyện HĐ, tỉnh Kiên Giang.

Người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn: Ông Lê Hoàng Duy L, cư trú tại: Số BSB Khu phố TC, thị trấn SS, huyện HĐ, tỉnh Kiên Giang (Chủ tịch kiêm Giám đốc Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên HDP - có mặt).

- Ông Lưu Thành H, cư trú tại: Số HN/BB LTT, khóm M, phường H, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

- Người làm chứng:

+ Ông Hà Phương G, cư trú tại: Số MKKB Khu phố ST, thị trấn SS, huyện HĐ, tỉnh Kiên Giang (có mặt).

+ Ông Trần Văn T, cư trú tại: Số HTK ấp TP, xã TP, huyện GR, tỉnh KiênGiang (có mặt).

+ Bà Vũ Phan Huỳnh N, cư trú tại: Số BNB Khu phố ST, thị trấn SS,huyện HĐ, tỉnh Kiên Giang (có mặt).

+ Bà Phạm Huyền Tr, cư trú tại: Số Nền C, Lô D1 KDC BL, phường B, quận T, thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 16/12/2016 của ông Lê Hoàng Duy L, đơn khởi kiện ngày 06/5/2017 của Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên HDP (sau đây viết tắt là Công ty HDP) và lời trình bày của ông Lê Hoàng Duy L tại phiên toà thì:

Công ty HDP có đặt ông Lưu Thành H thu mua, gia công và cung cấp cá.Công  ty  HDP  có  chuyển khoản  cho  ông  H  02  lần  với  số  tiền  tổng  cộng250.000.000 đồng và cho ông Nguyễn Thanh V 50.000.000 đồng thông quaNgân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín chi nhánh Kiên Giang để đặt ông H cung cấp cá. Sau khi nhận tiền, ông H có bán cho Công ty lô cá trị giá215.456.000 đồng, số tiền 84.544.000 đồng còn lại thì thỏa thuận sẽ thanh toáncho lô hàng tiếp theo.

Vào tháng 10/2015, Công ty HDP còn giao cho ông H 03 lô hàng gồm các loại cá thu, cá mú trị giá tổng cộng 75.456.000 đồng để ông H tìm nơi tiêu thụ, nhưng đến nay ông H vẫn chưa thanh toán tiền hàng lại cho Công ty.

Tại phiên tòa, Công ty HDP rút lại phần yêu cầu khởi kiện ông H trả75.456.000 đồng của 03 lô cá và chỉ yêu cầu ông H trả số tiền 84.544.000 đồng còn nợ.

- Theo lời trình bày của ông Lưu Thành H tại Biên bản kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và Biên bản hoà giải ngày 16/02/2017 thì ông H và Công ty HDP có mua bán cá với nhau và Công ty này chuyển khoản cho ông H 02 lần tổng cộng 250.000.000 đồng thông qua Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín chi nhánh Kiên Giang và giao 50.000.000 đồng cho ông Nguyễn Thanh V. Sau đó ông H bán cho Công ty HDP lô cá trị giá215.456.000 đồng, còn lại 84.544.000 đồng thì hai bên thỏa thuận sẽ thanh toáncho lô hàng tiếp theo. Đồng thời, ông H có nhận 01 lô cá thu, cá mú của Công tyHDP nhưng không rõ số lượng, giá trị.

Ông H không đồng ý trả tiền cho Công ty HDP vì cho rằng đã chuẩn bị lô hàng khoảng 04 tấn cá để bán cho Công ty HDP, nhưng Công ty này không đến nhận nên ông H phải chịu lỗ do đã bán cho Công ty khác vào thời điểm giá cá giảm.

- Theo lời khai của ông Hà Phương G tại phiên tòa thì ông Giang là nhân viên kế toán của Công ty HDP. Thông qua Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín chi nhánh Kiên Giang, vào ngày 06/10/2015 ông G chuyển khoản cho ông Lưu Thành H 10.000.000 đồng, đến ngày 14/10/2015 chuyển tiếp cho ông H 240.000.000 đồng; ngoài ra, ông G còn chuyển cho ông Nguyễn Thanh V 50.000.000 đồng theo yêu cầu của ông H nhưng ông G không nhớ rõ ngày chuyển. Tổng cộng 300.000.000 đồng này là tiền Công ty HDP chuyển cho ông H để thanh toán tiền mua cá.

- Theo lời khai của ông Trần Văn T tại phiên tòa thì ông T là người môi giới cho Công ty HDP và ông Lưu Thành H mua bán cá với nhau. Vào ngày 14/10/2015, ông T có đại diện cho Công ty HDP ký nhận lô hàng trị giá 215.456.000 đồng trong Phiếu xuất kho ngày 14/10/2015.

- Theo lời khai của bà Vũ Phan Huỳnh N tại phiên tòa thì vào khoảng tháng 7/2016, bà N và ông Lê Hoàng Duy L cùng với ông Lưu Thành H và bà Phạm Huyền Tr có đi tìm đối tác mua bán cá tại tỉnh Kom Tum. Bà N biết về khoản nợ giữa ông H và Công ty HDP do bà có trực tiếp trao đổi với bà Tr về khoản nợ này và bà Tr thừa nhận việc ông H có nợ tiền Công ty HDP.

- Theo lời khai của bà Phạm Huyền Tr tại Biên bản ngày 17/02/2017 thì bà Tr là vợ của ông Lưu Thành H và vợ chồng bà cùng ông Đỗ Thanh Vũ có hùn mua bán cá với Công ty HDP. Bà Tr có ký tên và ghi họ tên “Huyền Tr” trong Phiếu xuất kho ngày 14/10/2015; số tiền 300.000.000 đồng trong Phiếu xuất kho này là tiền Công ty HDP chuyển trước để đặt hàng và 215.456.000 đồng là giá trị của lô hàng bán lại cho Công ty HDP, còn thừa 84.544.000 đồng thì thỏa thuận thanh toán cho lô hàng kế tiếp.

Trong 300.000.000 đồng thể hiện trong Phiếu xuất kho trên thì gồm 250.000.000 đồng Công ty HDP chuyển khoản cho ông H và 50.000.000 đồng Công ty này chuyển khoản cho ông Đỗ Thanh V.

- Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng cho rằng trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

- Công ty HDP đã giao nộp các tài liệu, chứng cứ gồm: Bản chính Sổ phụ tài khoản tiền gửi không kỳ hạn của Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín chi nhánh Kiên Giang, chủ tài khoản là “CTY TNHH MTV HDP” và một thẻ nhớ kèm theo văn bản trình bày của ông Lê Hoàng Duy L về xuất xứ của việc ghi âm.

- Tòa án đã thu thập được các tài liệu, chứng cứ: Lấy lời khai ông Hà Phương G, ông Trần Văn T, ông Lê Hoàng Duy L và bà Phạm Huyền Tr; Bà Phạm Huyền Tr cung cấp bản sao (đã đối chiếu bản chính) Phiếu xuất kho ngày14/10/2015; Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Kiên Giang cung cấp Văn bản số320/SKHĐT-ĐKKD ngày 05/4/2017 về việc cung cấp thông tin đăng ký, thay đổi đăng ký kinh doanh và Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp của của Công ty HDP.

- Những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh: Công ty HDP có chuyển khoản cho ông Lưu Thành H số tiền 250.000.000 đồng và cho ông Nguyễn Thanh V 50.000.000 đồng để đặt ông H cung cấp cá. Ông H đã bán lại cho Công ty HDP lô cá trị giá 215.456.000 đồng, còn lại 84.544.000 đồng thì hai bên thỏa thuận sẽ thanh toán cho lô hàng tiếp theo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về tư cách tham gia tố tụng:

Theo đơn khởi kiện ngày 16/12/2016 của ông Lê Hoàng Duy L thì ông L có chuyển khoản để mua cá và gửi 03 lô cá cho ông Lưu Thành H với tổng giá trị 160.000.000 đồng. Do cho rằng ông H không giao cá và thanh toán tiền theo thỏa thuận nên ông L yêu cầu Toà án buộc ông H trả lại số tiền này. Vụ việc đã được Tòa án thụ lý vụ án dân sự số 187/2016/TLST-DS ngày 28/12/2016 về việc tranh chấp đòi lại tài sản, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Lê Hoàng Duy L, địa chỉ: BSB Khu phố TC, thị trấnSS, huyện HĐ, tỉnh Kiên Giang.

- Bị đơn: Ông Lưu Thành H, địa chỉ: HN/BB LTT, khóm M, phường H, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.

Quá trình giải quyết vụ án, Công ty HDP (địa chỉ tại số BSB Khu phố TC, thị trấn SS, huyện HĐ, tỉnh Kiên Giang và do ông Lê Hoàng Duy L làm Chủ sở hữu) có đơn khởi kiện với nội dung Công ty là bên giao dịch, chuyển khoản và gửi  cá cho ông Lưu Thành H và yêu cầu Tòa án buộc ông H trả số tiền160.000.000 đồng cho Công ty.

Do nội dung tranh chấp phát sinh từ giao dịch giữa Công ty HDP với ôngLưu  Thành H  và  Công ty  này chưa  giải  thể  hoặc  phá  sản, nên vào ngày06/6/2017 Tòa án đã xác định lại tư cách đương sự và quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án trên là tranh chấp hợp đồng mua hàng hàng hóa và đòi lại tàisản, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên HDP, địa chỉ: BSB Khu phố TC, thị trấn SS, huyện HĐ, tỉnh Kiên Giang.

Người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn: Ông Lê Hoàng Duy L, địa chỉ: BSB Khu phố TC, thị trấn SS, huyện HĐ, tỉnh Kiên Giang.

- Bị đơn: Ông Lưu Thành H, địa chỉ: HN/BB LTT, khóm M, phường H, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.

[1.2] Công ty HDP yêu cầu ông Lưu Thành H trả số tiền đặt hàng còn thừa và tiền mua 03 lô cá còn nợ; đồng thời, ông H cư trú tại địa chỉ số HN/BB LTT, khóm M, phường H, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng theo quy định tại khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 30, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.3] Tại phiên tòa, Công ty HDP rút lại phần khởi kiện yêu cầu ông H trả số tiền 75.456.000 đồng của 03 lô cá; do việc rút yêu cầu là hoàn toàn tự nguyện, căn cứ điểm c khoản 1 Điều 217, khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu khởi kiện này của Công ty HDP. Công ty HDP không phải chịu án phí đối với yêu cầu đã đình chỉ xét xử.

[3] Theo tình tiết, sự kiện không phải chứng minh, lời khai của bà Phạm Huyền Tr và Phiếu xuất kho ngày 14/10/2015, có cơ sở xác định Công ty HDP và ông Lưu Thành H có quan hệ mua bán cá với nhau và Công ty HDP đã chuyển trước cho ông H số tiền tổng cộng 300.000.000 đồng. Số tiền này được thanh toán cho lô cá trị giá 215.456.000 đồng mà ông H đã bán cho Công ty HDP theo nội dung Phiếu xuất kho ngày 14/10/2015; còn lại 84.544.000 đồng thì hai bên thỏa thuận thanh toán cho lô hàng kế tiếp. Nhưng từ đó đến nay ông H không giao hàng và cũng không trả lại số tiền này cho Công ty HDP nên việc Công ty HDP yêu cầu ông H trả lại tiền là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại Điều 166 Bộ luật Dân sự 2015.

[4] Về ý kiến của ông Lưu Thành H cho rằng lý do không trả tiền cho Công ty HDP vì Công ty này không nhận lô hàng kế tiếp theo thỏa thuận nên ông H bị lỗ do đã bán cho Công ty khác vào lúc giá cá giảm. Vào ngày14/11/2017, Tòa án đã có văn bản yêu cầu ông H làm đơn phản tố nhưng ông Hkhông thực hiện nên không có cơ sở xem xét, giải quyết trong cùng vụ án.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Lê Hoàng Duy L và Công ty HDP không phải chịu; ông Lưu Thành H phải chịu là 4.227.200 đồng theo khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 30, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 186, điểm c khoản 1 Điều 217, khoản 2 Điều 244, Điều 271, Điều 273, Điều 278, Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 166, điểm b khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự 2015; Điều 73, khoản 2 Điều 75 Luật Doanh nghiệp 2014 và khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn mộtthành viên HDP:

1/. Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên HDP về việc yêu cầu ông Lưu Thành H thanh toán số tiền đã mua 03 lô cá thu, cá mú trị giá 75.456.000 đồng.

2/. Buộc ông Lưu Thành H có trách nhiệm trả cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên HDP số tiền 84.544.000 đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất 10%/năm tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

3/. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Ông Lê Hoàng Duy L và Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên HDP không phải chịu; trả lại cho ông Lê Hoàng Duy L số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 4.000.000 đồng theo biên lai số 0004802 ngày 22/12/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng.

Ông Lưu Thành H phải chịu là 4.227.200 đồng.

4/. Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên HDP có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; ông Lưu Thành H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung), thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

401
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2018/DS-ST ngày 23/01/2018 về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa và đòi lại tài sản

Số hiệu:01/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 23/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về