Bản án 01/2018/DS-ST ngày 04/01/2018 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 01/2018/DS-ST NGÀY 04/01/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 01 năm 2018, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 782/2017/TLST-DS ngày17/10/2017 về việc: “Tranh chấp về hợp đồng mua bán tài sản”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 271/2017/QĐXXST-DS ngày 08/12/2017 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Nguyễn Thị Bé S - sinh năm 1960, Địa chỉ: Ấp 4, xã TT, huyện CB, tỉnh Tiền Giang.

Người đại diện theo ủy quyền: Anh Thái Quang T - sinh năm 1975; địa chỉ: Số 278, đường NTMK, Phường 1, thành phố CL, tỉnh Đồng Tháp. (Theo văn bản ủy quyền ngày 20/10/2017).

- Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh H - sinh năm 1965, Địa chỉ: Ấp 3, xã BHT, huyện CL, tỉnh Đồng Tháp.

(Anh Thái Quang T có mặt, ông Nguyễn Thanh H vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện của bà Nguyễn Thị Bé S đề ngày 21/9/2017, lời trình bày của anh Thái Quang T tại phiên tòa sơ thẩm như sau:

Bà S là chủ doanh nghiệp tư nhân xăng dầu Anh Tuấn, trong quá trình kinh doanh, giữa bà S và ông Nguyễn Thanh H có giao dịch mua bán dầu với nhau, mục đích của việc mua bán dầu là để hoạt động 02 xe tải của ông H mang biển số 66C-03449 và 63C-04381. Đến ngày 08/6/2017, hai bên xác lập bản đối chiếu công nợ, theo đó ông H thừa nhận còn thiếu số tiền mua dầu của bà S là 168.519.000 đồng, ông H cam kết sẽ thanh toán trong thời gian sớm nhất, tuy nhiên đến nay ông H vẫn chưa trả nợ cho bà S mặc dù bà S đã nhiều lần yêu cầu.

Nay bà S khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết buộc ông Nguyễn Thanh H phải trả số tiền mua dầu còn thiếu là 168.519.000 đồng (một trăm sáu mươi tám triệu, năm trăm mười chín nghìn đồng), bà S không yêu cầu trả lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ trả nợ.

- Đối với bị đơn là ông Nguyễn Thanh H đã được Tòa án tống đạt Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa cùng các giấy triệu tập hợp lệ nhưng đều không có văn bản ý kiến gửi cho Tòa án đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và cũng không tham gia các phiên hòa giải cũng như phiên tòa xét xử của Tòa án.

- Kèm theo đơn khởi kiện và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn đã giao nộp cho Tòa án Biên bản đối chiếu công nợ đề ngày 08/6/2017 có thể hiện số tiền cụ thể mà bị đơn còn nợ của nguyên đơn, Tòa án đã thông báo cho bị đơn biết nhưng bị đơn vẫn không có ý kiến gì nên đây là tình tiết không cần phải chứng minh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời trình bày và yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận định;

Về quan hệ pháp luật tranh chấp, căn cứ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thể hiện quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các đương sự là tranh chấp về hợp đồng mua bán tài sản thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân theo quy định tại khoản 3, Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn có nơi cư trú tại huyện Cao Lãnh nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Cao Lãnh theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về tố tụng, tại phiên tòa ngày 20/12/2017 và ngày 04/01/2018, bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không có lý do và không có người đại diện tham gia phiên tòa, đồng thời bị đơn cũng không có yêu cầu phản tố trong vụ án này, vì vậy Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo điểm b, khoản 2, Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Xét yêu cầu của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Bé S về việc yêu cầu bị đơn ông Nguyễn Thanh H phải trả số tiền mua dầu là 168.519.000 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy: Giữa bà S và ông H có giao dịch mua bán dầu để phục vụ cho việc kinh doanh vận tải của ông H, trong quá trình mua bán với nhau thì ông H còn thiếu của bà S số tiền 168.519.000 đồng, đã được bà S chứng minh bằng bản đối chiếu công nợ ngày 08/6/2017 có chữ ký của ông H. Bản đối chiếu công nợ này do bà S giao nộp cho Tòa án thể hiện đúng như lời trình bày của bà S.

Trong quá trình Tòa án thụ lý vụ án và thu thập chứng cứ, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng, thể hiện rõ nội dung vụ việc và yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cũng như tài liệu, chứng cứ mà nguyên đơn nộp kèm theo đơn khởi kiện cho ông H. Tuy nhiên, ông H vẫn không có văn bản ý kiến gửi cho Tòa án cũng như không có ý kiến phản bác, yêu cầu phản tố hay yêu cầu gì khác liên quan đến yêu cầu khởi kiện của phía nguyên đơn.

Mặc khác, tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định: “Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh”. Do đó, Hội đồng xét xử xác định hợp đồng mua bán giữa hai bên đương sự là có thật nên việc nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả số tiền mua bán dầu 168.519.000 đồng là có căn cứ chấp nhận.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu của bà S được chấp nhận nên ông H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 430, Điều 440 của Bộ luật dân sự; điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội,

* Tuyên xử:

- Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị Bé S. Buộc ông Nguyễn Thanh H phải trả cho bà Nguyễn Thị Bé S 168.519.000 đồng (một trăm sáu mươi tám triệu, năm trăm mười chín nghìn đồng) tiền mua bán dầu còn thiếu.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

- Về án phí:

+ Tiền án phí dân sự sơ thẩm là 8.426.000 đồng, ông Nguyễn Thanh H phải chịu.

+ Bà Nguyễn Thị Bé S không phải chịu án phí và được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 4.200.000 đồng theo biên lai số 16183 ngày 17/10/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lãnh.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

346
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2018/DS-ST ngày 04/01/2018 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

Số hiệu:01/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cao Lãnh - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 04/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về