Bản án 01/2017/KDTM-PT ngày 30/03/2017 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 01/2017/KDTM-PT NGÀY 30/03/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Trong ngày 30 tháng 3 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 08/2016/TLPT-KDTM ngày 24 tháng 11 năm 2016 về tranh chấp hợp đồng tín dụng.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 01/2016/KDTM-ST ngày 18/10/2016 của Tòa án nhân dân huyện Vũ Thư bị kháng cáo.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 12/2017/QĐPT-KDTM ngày 23 tháng 02 năm 2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ

Địa chỉ trụ sở: đường L, phường X, quận P, thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Võ Minh T - Chủ tịch Hội đồng quản trị

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thành T - Giám đốc phòng giao dịch huyện T và Ông Phan Đức T, sinh năm 1983 - Nhân viên phát triển kinh doanh phòng giao dịch T - Ngân hàng Thương mại cổ phần D chi nhánh Thái Bình.

Có mặt tại phiên tòa

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1967;

Ông Vũ Duy N, sinh năm 1968

Cùng trú tại: Thôn T, xã T1, huyện V, tỉnh Thái Bình

Ông N có mặt tại phiên tòa- bà N vng mặt lần thứ 2 do cố tình trốn tránh

3. Người có quyền li nghĩa vụ liên quan:

- Bà Vũ Thị L, sinh năm 1965

Sinh quán: Thôn T, xã T1, huyện V, tỉnh Thái Bình

Trú quán: Thôn V, xã D, huyện V, tỉnh Thái Bình;

- Ông Trần Đắc T, sinh năm 1975

Trú quán: Thôn T, xã T1, huyện V, tỉnh Thái Bình

Có mặt tại phiên tòa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 04/02/2016, bản tự khai và lời khai tại phiên tòa, đại diện nguyên đơn trình bày và có yêu cầu cụ thể như sau:

Ngày 30/9/2013 Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ (Bên A) và bà Nguyễn Thị N, ông Vũ Duy N (bên B) ký kết hợp đồng tín dụng số K1380/NT, theo đó, bên A cấp cho bên B hạn mức tín dụng tối đa là 1.600.000.000 đồng, mục đích sử dụng: Bổ sung vốn kinh doanh phụ tùng ô tô, xe máy, thời hạn của hạn mức tín dụng là 03 năm (từ 01/10/2013 đến 10/10/2016), trong thời hạn đó khi có nhu cầu vốn và trên cơ sở đề nghị của bên B, hai bên sẽ ký hợp đồng vay vốn.

Ngày 01/10/2013, ngân hàng thương mại cổ phần Đ - Chi nhánh Thái Bình, phòng giao dịch L (bên A) và bà Nguyễn Thị N, ông Vũ Duy N (bên B) đã ký kết hợp đồng thế chấp số K1380/1/HĐTC, theo đó, bên B thế chấp cho bên A các tài sản để đảm bảo thực hiện toàn bộ nghĩa vụ của bên B đối với bên A theo hợp đồng tín dụng số K1380/NT ngày 30/9/2013, gồm hai khối tài sản:

- Thửa đất số A tờ bản đồ số B - diện tích 150 m2 đất ở (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AM 144056 do UBND huyện V cấp ngày 30/01/2008) và tài sản trên đất là một nhà cấp bốn diện tích 50m2 (đã được rỡ bỏ, xây dựng lại ngôi nhà 100m2 kiên cố).

- Thửa đất số C tờ bản đồ số B - diện tích 220 m2 đất (gồm 150 m2 đất ở và 70 m2 đất LNK) (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AM 144057 do UBND huyện V cấp ngày 30/01/2008) và tài sản trên đất là một nhà cấp bốn diện tích 70 m2.

Hợp đồng thế chấp đã được công chứng và đã được đăng ký thế chấp ngày 01/10/2013 tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất UBND huyện V, tỉnh Thái Bình.

Ngày 08/4/2014, bên A và bên B ký phụ lục hợp đồng thế chấp số K1380/1/HĐTC-PL01, về việc thay đổi giá trị tài sản thế chấp.

Ngày 08/4/2014 Ngân hàng thương mại cổ phần Đ Chi nhánh Thái Bình - Phòng giao dịch L (bên A) và bà Nguyễn Thị N, ông Vũ Duy N (bên B) đã ký hợp đồng vay vốn số 18001K1469/1 với các thỏa thuận như sau: Bên A cho bên B vay số tiền (vốn gốc): 1.600.000.000 đồng; Thời hạn vay là 06 tháng (từ 08/4/2014 đến 08/10/2014); Lãi suất trong hạn 12%/năm, lãi suất quá hạn bằng 1,5 lần lãi suất trong hạn. Mục đích sử dụng vốn vay: Bổ sung vốn kinh doanh xe máy, phụ tùng ô tô xe máy. Biện pháp bảo đảm nợ vay: 02 bất động sản tại thị tứ T, xã T1, huyện V, tỉnh Thái Bình (theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X và Y do UBND huyện V cấp ngày 30/01/2008). Sau đó, ông N, bà N đã ký giấy nhận nợ và nhận đủ 1.600.000.000 đồng.

Ngày 04/7/2014, bà N, ông N đã có đơn đề nghị Ngân hàng thương mại cổ phần Đ về việc cho phép ông bà trả gốc 680.000.000 đồng để rút tài sản thế chấp là bất động sản theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Y. Ngày 07/7/2014, Ngân hàng thương mại cổ phần Đ đã chấp thuận đề nghị đó của ông N, bà N.

Ngày 09/7/2014, hai bên ký kết phụ lục hợp đồng thế chấp số K1380/1/HĐTC-PL02, về việc thay đổi điều 1 của hợp đồng chính: Mô tả tài sản thế chấp: Thửa đất số C, tờ bản đồ số B, diện tích số 220 m2, quyền sở hữu nhà ở: Nhà cấp 4, diện tích 70 m2; tài sản gắn liền với đất: Căn nhà một tầng bê tông cốt thép, nền lát gạch men, tường quét vôi, diện tích đất 100 m2, diện tích xây dựng nhà bếp và công trình phụ là 40 m2. Phụ lục hợp đồng thế chấp đã được công chứng.

Từ ngày 08/4/2015, Ngân hàng thương mại cổ phần Đ đã khởi kiện ông N, bà N ra Tòa án nhân dân huyện Vũ Thư, yêu cầu Tòa án buộc ông N, bà N phải trả nợ cho ngân hàng toàn bộ số vốn gốc và lãi vay là 1.062.925.000 đồng, gồm: Vốn gốc: 915.000.000 đồng; lãi vay trong hạn: 7.015.000 đồng; lãi quá hạn tạm tính đến ngày 12/8/2015 là 140.910.000đ. Nếu khi bản án có hiệu lực pháp luật, ông N, bà N không thực hiện thì ngân hàng sẽ yêu cầu Chi cục thi hành án dân sự cưỡng chế phát mại tài sản thế chấp để thu hồi nợ cho ngân hàng.

Bản án số 06/2015/DS-ST ngày 13/8/2015 của Tòa án nhân dân huyện Vũ Thư đã xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc ông N, bà N phải trả nợ cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đ toàn bộ số nợ như yêu cầu. Về xử lý tài sản thế chấp, do tại phiên tòa nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện nên Tòa án đã không xét quyết định.

Ngân hàng thương mại cổ phần Đ và ông N kháng cáo bản án sơ thẩm.

Bản án dân sự phúc thẩm số 29/2015/DS-PT ngày 29/12/2015 Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình đã xét xử, quyết định hủy bản án số 06/2015/DS-ST ngày 13/8/2015 của Tòa án nhân dân huyện Vũ Thư, giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân huyện Vũ Thư xét xử lại theo thẩm quyền.

Vì vậy, hiện nay, Ngân hàng thương mại cổ phần Đ tiếp tục yêu cầu bà Nguyễn Thị N, ông Vũ Duy N có nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng thương mại cổ phần Đ khoản nợ theo hợp đồng tín dụng số K1380/NT ngày 30/9/2013; hợp đồng vay vốn số 18001K1469/1 ngày 08/4/2014 gồm 915.000.000 đồng nợ gốc; 7.015.000 đồng lãi trong hạn và 339.007.500 đồng lãi quá hạn tính đến ngày 18/10/2016. Trong trường hợp ông N, bà N không thanh toán số nợ trên thì ngân hàng thương mại cổ phần Đ có quyền xử lý các tài sản đảm bảo theo thỏa thuận tại các hợp đồng thế chấp số K1380/1/HĐTC ngày 01/10/2013; phụ lục hợp đồng thế chấp số K1380/1/HĐTC-PL01 ngày 08/4/2014 và phụ lục hợp đồng thế chấp số K1380/1/HĐTC-PL01 ngày 09/7/2014 hoặc yêu cầu cơ quan thi hành án kê biên, phát mại tài sản đảm bảo của khoản vay nêu trên để thu hồi nợ cho ngân hàng Đ. Trường hợp tài sản đảm bảo không đủ để thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng Đ, ông N, bà N phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo quy định pháp luật. Ông N, bà N tiếp tục phải chịu khoản lãi kể từ sau ngày tuyên bản án sơ thẩm đối với khoản nợ gốc cho đến khi thanh toán xong, theo mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng.

Nguyên đơn xuất trình tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình: Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp công ty cổ phần của Ngân hàng thương mại cổ phần Đ; Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và đăng ký thuế hộ kinh doanh của hộ gia đình bà Nguyễn Thị N, quyết định bổ nhiệm Tổng Giám đốc ngân hàng thương mại cổ phần Đ, quyết định ủy quyền; Hợp đồng tín dụng số K1380/NT ngày 30/9/2013; hợp đồng vay vốn số 18001K1469/1 ngày 08/4/2014, hợp đồng thế chấp số 1380/1/HĐTC ngày 01/10/2013; phụ lục hợp đồng thế chấp số K1380/1/HĐTC-PL01 ngày 08/4/2014 và phụ lục hợp đồng thế chấp số K1380/1/HĐTC-PL02 ngày 09/7/2014, các tài liệu trong hồ sơ vay vốn, các thông báo yêu cầu thanh toán nợ đến hạn. Bản tự khai của nguyên đơn, bảng tính lãi hồ sơ vay khách hàng.

Tại bản tự khai, lời khai và các chứng cứ đã xuất trình, thì bị đơn có quan điểm đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn như sau:

Vợ chồng ông Vũ Duy N và bà Nguyễn Thị N thừa nhận việc ký kết hợp đồng vay vốn của Ngân hàng thương mại cổ phần Đ ngày 08/4/2014, số tiền vay (vốn gốc) là 1.600.000.000 đồng, lãi suất 12%/năm; thời hạn vay 06 tháng (từ 08/4/2014 đến 08/10/2014); mục đích vay: Bổ sung vốn kinh doanh phụ tùng ô tô xe máy.

Biện pháp đảm bảo cho khoản vay: Vợ chồng ông N, bà N thế chấp 02 bất động sản: 01 bất động sản tại thị tứ T, xã T1, huyện V, tỉnh Thái Bình theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H do UBND huyện V cấp ngày 30/01/2008. Một bất động sản tại thị tứ T, xã T1, huyện V, tỉnh Thái Bình theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Y vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H1 do UBND huyện V cấp ngày 30/01/2008.

Trong quá trình vay ông N, bà N đã trả cho ngân hàng 753.733.333 đồng gồm: Vốn 685.000.000 đồng; lãi trong hạn 68.733.333 đồng. Số nợ gốc còn 915.000.000 đồng và lãi suất như nguyên đơn trình bày là đúng. Ông N, bà N đã ba lần gửi đơn cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đ đề nghị được trả nợ theo phương thức: Khoanh lãi lại (cả trong hạn và quá hạn) để ông bà trả dần cho hết nợ gốc (số tiền trả dần gốc là 20.000.000 đồng/quý) còn tiền lãi sẽ trả sau khi đã trả hết nợ gốc nhưng phía Ngân hàng không đồng ý.

Ngoài ra, ông N, bà N còn trình bày ngôi nhà mái bằng vợ chồng ông xây dựng trên thửa đất số C đã thế chấp cho Ngân hàng là tài sản do 08 anh em trong họ Vũ đóng góp để xây dựng nơi thờ tự của dòng họ, khi ông bà thế chấp nhà đất cho Ngân hàng không thông báo cho anh em trong họ được biết.

Quan điểm hiện nay của ông N: Do bà N bỏ nhà đi từ tháng 5/2015 không cho ông biết địa chỉ, vì vậy ông N đề nghị chờ bà N về để giải quyết vụ án.

Bị đơn cung cấp các tài liệu, chứng cứ: Bản tự khai của ông N, bà N; đơn đề nghị của ông Vũ Duy N đề ngày 08/6/2016, và “danh sách các thành viên theo giỗ, đóng góp, dâng cúng ngành 3 họ Vũ Duy”.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày và có quan điểm như sau:

- Bà Vũ Thị L trình bày: Bà và ông N là chị em ruột. Bố bà là trưởng chi 3 của ngành 3 họ Vũ Duy. Bố mẹ bà chỉ có một người con trai là ông N nên sau khi bố bà mất, ông N là trưởng chi và vợ chồng ông sinh sống trên nhà đất của tổ tiên để lại và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với toàn bộ diện tích đất đó. Trên đất có ngôi nhà cấp bốn, vừa là nơi thờ cúng các cụ chi 3 ngành 3 họ Vũ Duy, vừa là nơi ăn ở, sinh hoạt của gia đình ông N, đến năm 2012, do nhà cấp bốn xuống cấp nên ông N đã họp chi 3 ngành 3 họ Vũ Duy để quyết định xây dựng lại nhà để có nơi thờ tự các cụ được khang trang hơn, việc đóng góp là tùy tâm chứ không quy định theo suất đinh. Bà đóng góp 10 triệu để xây dựng lại nhà. Bà đưa tiền cho bà N và bà N ghi tên bà vào danh sách góp tiền. Bà có một tờ danh sách phô tô đúng như tờ giấy mà ông N đã nộp tại Tòa án chứ không có bằng chứng nào khác. Bà xác định ngôi nhà mà vợ chồng ông N đang ở là tài sản chung của những người đã đóng góp xây dựng. Khi ông N, bà N thế chấp nhà, đất để vay tiền Ngân hàng thương mại cổ phần Đ không bàn bạc, không thông báo cho bà được biết. Quan điểm của bà: Bà không đòi lại tiền đã đóng góp cho vợ chồng ông N, mà đề nghị Tòa án giải quyết sao cho giữ nguyên nhà thờ như hiện nay cho chi 3, ngành 3 họ Vũ Duy để thờ tự. Bà không có yêu cầu độc lập trong vụ án. Do sức khỏe yếu nên bà đề nghị được vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án.

- Ông Trần Đắc T trình bày: Bố ông N và mẹ ông là hai anh em. Ông Vũ Duy T1, bố đẻ anh N là trưởng chi 3 ngành 3 họ Vũ Duy, sau khi ông T1 mất, ông N là trưởng chi và sinh sống trên nhà đất của tổ tiên để lại và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với đất đó. Trên đất có ngôi nhà cấp bốn vừa là nơi thờ cúng vừa là nơi ăn ở, sinh hoạt của gia đình ông N. Đến năm 2012, do nhà cấp bốn xuống cấp nên đã họp chi 3, ngành 3, họ Vũ Duy để quyết định xây dựng lại nhà để có nơi thờ tự các cụ, việc đóng góp là tùy tâm, ông đã góp một triệu đồng để xây dựng nhà và góp công trong khi xây dựng. Ông đưa tiền cho bà N và bà N ghi tên ông vào danh sách góp tiền. Ông có một tờ danh sách phô tô đúng như tờ giấy ông N đã nộp tại Tòa án chứ không có bằng chứng nào khác. Ông xác định nhà và đất mà gia đình ông N đang sinh sống là tài sản chung của những người đóng góp xây dựng. Khi ông N, bà N thế chấp nhà không hề có bàn bạc hay thông báo gì cho ông được biết. Nay ông không đòi lại tiền đã đóng góp cho vợ chồng ông N, mà đề nghị Tòa án giải quyết sao cho giữ nguyên nhà thờ như hiện nay cho chi 3 ngành 3 dòng họ Vũ Duy để thờ tự. Ông không có yêu cầu độc lập trong vụ án.

Tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải ngày 02/8/2016, bà L, ông T trình bày bổ sung yêu cầu: Dòng họ Vũ tại xã T1, huyện V, tỉnh Thái Bình yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng vay vốn của Ngân hàng thương mại cổ phần Đ với ông N, bà N vì bà N đã thế chấp thửa đất của họ Vũ để vay vốn ngân hàng; Bà N vay thì bà N phải trả, không được xử lý nhà đất của họ Vũ. Ông bà không có văn bản ủy quyền của dòng họ Vũ tại xã T1, huyện V cho ông bà đối với yêu cầu này tại Tòa án.

Tại bản án sơ thẩm số 01/2016/TCKDTM-ST ngày 18/10/2017 của Tòa án nhân dân huyên Vũ Thư đã quyết định:

- Áp dụng điều 147, 228, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Điều 137, 342, 411, 471, 474, 476, 715 của Bộ luật dân sự năm 2005;

- Điều 90, 91, 95 Luật tổ chức tín dụng năm 2010.

- Khoản 4 điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án

I/ Xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần Đ:

Buộc bà Nguyễn Thị N và ông Vũ Duy N có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đ toàn bộ số nợ tiền gốc, nợ lãi theo hợp đồng tín dụng số K1380/NT ngày 30/9/2013 và hợp đồng vay vốn số 18001K1469/1 ngày 08/4/2014 giữa Ngân hàng thương mại cổ phần Đ, chi nhánh Thái Bình và Bà Nguyễn Thị N, ông Vũ Duy N. Tổng số tiền nợ tính đến ngày 18/10/2016 là 1.261.500.000đ, bao gồm tiền nợ gốc 950.000.000đ nợ lãi trong hạn 7.015.000đ; lãi quá hạn 339.007.500đ.

Kể từ ngày 18/10/2016 nếu bà N và ông N không thực hiện nghĩa vụ nêu trên thì bà N và ông N tiếp tục chịu khoản tiền lãi chậm trả đối với số nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất quá hạn đã thỏa thuận (tại 18001K1469/1 ngày 08/4/2014 giữa Ngân hàng thương mại cổ phần Đ, chi nhánh Thái Bình và Bà Nguyễn Thị N, ông Vũ Duy N) cho đến khi thanh toán xong

II/ Xử không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần Đ về xử lí thế chấp:

Tuyên bố hợp đồng thế chấp số K1380/1/HĐTC ngày 01/10/2013; phụ lục hợp đồng thế chấp số K1380/1/HĐTC-PL01 ngày 08/4/2014; phụ lục hợp đồng thế chấp số K1380/1/HĐTC-PL02 ngày 09/7/2014 vô hiệu.

Buộc Ngân hàng thương mại cổ phần Đ phải trả lại cho bà Nguyễn Thị N và Ông Vũ Duy N giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X vào sổ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H do UBND huyện V cấp ngày 30/01/2008.

Ngoài ra bản án còn tuyên về phần án phí và quyền kháng cáo

Ngày 01/11/2016 Ngân hàng thương mại cổ phần Đ kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm chấp nhận hợp đồng thế chấp.

Tại phiên tòa Viện kiểm sát tỉnh Thái Bình phát biểu quan điểm

Trong quá trình giải quyết vụ án những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng đã làm đúng quy định của pháp luật.

Về nội dung: Đề nghị không chấp nhận kháng cáo của Ngân hàng thương mại cổ phần Đ, Y án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Để thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng vay vốn tín dụng số 180001K11469/1 Ngân hàng thương mại cổ phần Đ chi nhánh Thái Bình với bên vay vốn là vợ chồng ông Vũ Duy N, bà Nguyễn Thị N đã thỏa thuận thế chấp hai thửa đất gồm: Thửa đất số C diện tích 220m2 và thửa đất số A diện tích 150m2 để vay 1,6 tỷ đồng. Sau khi ông N, bà N trả nợ gốc được 685.000.000đ thì ngân hàng đã giải chấp đối với thửa đất số. Sau khi giải chấp thửa đất số A thì hai bên đã kí kết thêm phụ lục hợp đồng số 1380/1/HĐTC-PL02 thì tài sản thế chấp gồm diện tích đất 220m2 (thửa số C) trên đất có 01 nhà ở 70 m2; 40 m2 công trình phụ và 100 m2 nhà kiên cố. Qua thẩm định tại chỗ thì đã xác định một phần công trình phụ và ngôi nhà 100 không nằm trọn vẹn trong thửa đất C (có 0,7m nằm sang phần đất của thửa A đã giải chấp). Do đối tượng thế chấp không đúng với hợp đồng thế chấp mà đối tượng thế chấp lại là công trình kiên cố. Do vậy khi xử lí tài sản thế chấp để thi hành án là không thực hiện được. Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố hợp đồng thế chấp tài sản là vô hiệu là có căn cứ, đúng pháp luật. Do đó Hội đồng xét xử Phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của Ngân hàng thương mại cổ phần Đ.

Về án phí: Do kháng cáo của Ngân hàng thương mại cổ phần Đ không được chấp nhận nên Ngân hàng thương mại cổ phần Đ phải chịu án phí dân sự phúc thẩm

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án

- Về tố tụng:

Đơn kháng cáo của Ngân hàng thương mại cổ phần Đ làm trong thời hạn luật định là hợp lệ.

- Về nội dung:

Không chấp nhận kháng cáo của Ngân hàng thương mại cổ phần Đ; Giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm số 01/2016/KDTM-ST ngày 18/10/2016 của Tòa án nhân dân huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.

- Về án phí: Ngân hàng thương mại cổ phần Đ phải chịu 200.000đ tiền án phí dân sự phúc thẩm. Chuyển số tiền 200.000đ Ngân hàng thương mại cổ phần Đ nộp tạm ứng án phí tại biên lai thu số 0002467 ngày 01/11/2016 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Thái Bình sang thi hành án phí.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực từ ngày 30/3/2017.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

573
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2017/KDTM-PT ngày 30/03/2017 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:01/2017/KDTM-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Bình
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 30/03/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về