TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MAI SƠN- TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 01/2017/HSST NGÀY 27/10/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 27 tháng 10 năm 2017, tại Trụ sở tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 06/HSST ngày 12/10/2017; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2017/QĐXXST-HS ngày 12/10/2017 đối với bị cáo:
Nguyễn Chí Trung A. Sinh năm: 1987; Nơi sinh: huyện B2, tỉnh B3; Nơi ĐKHKTT và nơi ở: Tiểu khu B, thị trấn B1, huyện B2, tỉnh B3; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 12/12. Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Chí N, sinh năm: 1964 và bà: Phạm Thị Kim D, sinh năm: 1965; Có vợ là Nguyễn Mai H, sinh năm 1987 (đã ly hôn) và có 01 con sinh năm 2011.
Tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 29/6/2017, giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Mai Sơn cho đến nay; Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 09 giờ 45 ngày 29.6.2017 tổ công tác Công an huyện Mai Sơn đã phát hiện và bắt quả tang Nguyễn Chí Trung A đang tàng trữ trái phép 05 túi nilon chứa chất bột màu trắng, Trung A khai là hê rô in. Trung A tàng trữ với mục đích để sửdụng. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ toàn bộvật chứng.
Cùng ngày, cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mai Sơn đã tiến hành khám xét khẩn cấp, chỗ ở, đồ vật đối với Nguyễn Chí Trung A, trú tại tiểu khu B, thị trấn B1, huyện B2, tỉnh B3. Kết quả khám xét phát hiện thu giữ: Tại đầu giường ngủ của A 01 hộp nhựa màu trắng bên trong có chứa 06 túi nilon màu trắng, trong đó 03 túi bên trong mỗi túi đều chứa 02 gói hêrôin và 03 túi nilon bên trong mỗi túi đều chứa 01 gói hêrôin. Thu giữ tại cuối giường 01 vỏ hộp sắt bao thuốc lá Thăng Long bên trong có chứa 01 gói được gói bằng túi nilon đựng bơm kim tiêm, 01 cân tiêu ly nhãn hệiu POCKET SARLE.
Quá trình điều tra xác định:
Khoảng đầu tháng6 năm 2017, Nguyên Chí Trung A đi từ nhà đến bản Pá Đông, xã Nà Bó, huyện Mai Sơn để tìm mua ma túy về sử dụng thì gặp một ngưđờàin ông giơi thiêu tên la N1, Trung A đa nhơ N1 đi mua ma tuy vơi sô tiên 200.000đ, sau khi nhận được ma túy, Trung A và N1 lấy sô điên thoai của nhau, sau đo TrungA đi vê nhavà sử dụng hết số ma túy trê.n
Khoảng 8 giờ 30 phút ngày 28.6.2017, Nguyễn Chí Trung A dùng điện thoại nhắn tin cho N1 hỏi mua hêrôin. Đến 13 giờ 30 phút cùng ngày, N1 nhắn tin tra lơi và bảo Trung A đi lên khu vực hồ thuộc xã Nà Bó, huyện Mai Sơn để lấy ma túy. Trung A điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Super Dream, biển số đăng ký 26K1-120.75 đến địa điểm mà N1 hẹn. Trung A lấy số tiền 1.200.000VNĐ đưa cho N1, N1 cầm tiền và bảo Trung A đợi, sau đó N1 đi bộ vào đường đi nương cạnh cây xăng. Khoảng 20 phút sau quay lại và đưa cho Trung A 01 gói được gói ngoài là lớp nilon màu đen do tin tưởng nên Trung A không mở ra kiểm tra. Sau đó, Trung A cầm gói ma túy ở tay rồi điều khiển xe đi về nhà lấy môt phần ra để sử dụng rồi cho toan bô sôhêrôin còn lại vào tui nilon đưng bơm kim tiêm, dùng chai nhựa đựng nước nghiền thành ạdng bột, sau đo sư dung giâybáo nhiều mầugói thành18 gói, phân conlại TrungA gói luôn trong túi nilon đựng bơm kim tiêm rôi cất giấu toan bô sô ma tuy trên giờưng ngủ. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày,Trung A dùng kim tiêm sử dụng hết 02 gói hêrôin, đến 22 giờ cùng ngày Trung A tiếptục sử dụng hết 02 gói hêrôin. Sau khi sử dụng xong Trung A chia 14 gói hêrôin còn lại vào 10 túi nilon mầu trắng có khóa nhựa trong đó gồ0m4 túi bên trong mỗi túi đều chứa02 gói hêrôin và 06 túi bên trong mỗi túi đều chưa01 gói hêrôin rôi cât giâu vào trong hộp nhựa đê trên giương ngu, còn 01 gói hêrôin đươc goi băng tui nilon loai đưng bơm kim tiêm Trung A cât giâu vao trong vỏ bao thuốc lá nhan hiêu Thăng Long băng kimloại và cất giấu trên giương ngu trong phòn.gĐến khoảng 9 giờ 45 phút, ngày 29.6.2017, Trung A lấy từ chiếc hộp nhựa mâu trăng ra04 túi nilon mầu trắng bên trong có chứ0a5 gói hêrôin đươc goi băng manh giây bao nhiêu màucho vào hai bên túi quần đi tim nơiđể sử dụng. Khi đi đên khu vưc thuôc tiêu khu17, thị trấn Hát Ló,t huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La thi bị tổ công tác Công an huyện Mai Sơn kiêm tra, phát hiên bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng.
Ngày 29.6.2017, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mai Sơn tiến hành bóc mở niêm phong, cân tịnh xác định trọng lượng, trích rút mẫu giám định số vật chứng thu giữ khi bắt quả tang và khám xét khẩn cấp của Nguyễn Chí Trung A. Kết quả cân tịnh: Tổng trọng lượng chất bột nén màu trắng nghi là hêrôin là 0,829 gam, trích rút 0,566 gam ký hiệu từ M1 đến M15 gửi PC54 Công an tỉnh Sơn La để trưng cầu giám định loại chất ma tuý, trọng lượng chất ma túy. Vật chứng còn lại 0,263 gam ký hiệu T.
Ngày 05.7.2017 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La ra bản kết luận giám định số 694/KLMT: Mẫu vật gửi giám định ký hiệu M1 đến M15 là chất ma túy; Loại chất hêrôin, tổng trọng lượng của mẫu gửi giám định là 0,566 gam.
Tổng trọng lượng chất ma túy thu giữ được là 0,829 gam; Loại chất hêrôin. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành viphạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạtcho bị cáo. Tại phiên toà không phát sinh tình tiết mới.
Tại bản cáo trạng số: 88/KSĐT-MT ngày 12/10/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn đã truy tố bị cáo Nguyễn Chí Trung A với nội dung: Truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Mai Sơn để xét xử đối với bị cáo Nguyễn Chí Trung A về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.
Qua tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn đã phát biểu ý kiến, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Nguyễn Chí Trung A phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy và đề nghị áp dụng các căn cứ pháp luật xử phạt đối với bị cáo như sau:
Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; khoản 3 Điều 7; điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Chí Trung A từ 16 đến 24 tháng tù giam.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về vật chứng của vụ án đề nghị áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 41 BLHS,điểm a, đ khoản 2 Điều 76 BLTTHS:
Tuyên tịch thu tiêu huỷ: Tang vật còn lại của vụ án T1= 0,263gam hê rô in, vỏ bao bì niêm phong tang vật ban đầu; 01 cân tiểu ly nhãn hiệu POCKET SCALE; 01 hộp nhựa màu trắng có kích thước 10 x 10 x 80cm; 01 hộp vỏ bao thuốc lá bằng kim loại nhãn hiệu Thăng Long có kích thước 10x10x2cm.
Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia N1280.
Về án phí: Đề nghị áp dụng khoản 1, 2 Điều 99 BLTTHS; điểm a khoản 1Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy banthường vụ Quốc hội buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 VNĐ.
Bị cáo Nguyễn Chí Trung A tự bào chữa: Nhất trí với nội dung luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mai Sơn, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình điều tra, truy tố, và tại phiên tòa hôm nay không có người nào có ý kiến hoặc khiến nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng,người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Về hành vi phạm tội của bị cáo: Nguyễn Chí Trung A khai nhận bản thân là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy, ngày 28.6.2017 Nguyễn Chí Trung A đã mua trái phép 1.200.000VNĐ hê rô in với mục đích để sử dụng và bị tổ công tác Công an huyện Mai Sơn bắt quả tang thu giữ 0,829 gam hê rô in. Lời khai của bị cáo là hoàn toàn phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang do tổ công tác Công an huyện Mai Sơn lập hồi 09 giờ 45 phút ngày 29/6/2017; biên bản mở niêm phong, xác định trọng lượng, lấy mẫu giám định, biên bản hỏi cung và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Như vậy đã có đủ cơ sở để kết luận: Hành vi phạm tội trên đây của bị cáo Nguyễn Chí Trung A đã phạm vào tội tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.
Khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự quy định:
“ 1. Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm ...”
Việc xét xử bị cáo là chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật không oan sai cho bị cáo.
Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, HĐXX thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, làm tăng tệ nạn nghiện chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.
Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy rằng:
Bị cáo Nguyễn Chí Trung A không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bản thân bị cáo có đủ năng lực nhận thức trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì nghiện ma túy nên bị cáo đã phạm tội với lỗi cố ý. Tuy nhiên khi lượng hình cũng cần xem xét các tình tiết: Quá trình điều tra và tại phiên toà ngày hôm nay bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm p khoản 1 điều 46 BLHS năm 1999.
Theo quy định tại điểm h, i khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội về việc thi hành bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo luật số 12/2017/QH14 và về hiệu lực thi hành của Bộ luật tố tụng hình sự số 101/2015/QH13, Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự số 99/2015/QH13, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13 về việc áp dụng các quy định có lợi cho người phạm tội. Cụ thể, tại khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 quy định về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy có khung hình phạt tù từ 01 đến 05 năm, như vậy quy định này nhẹ hơn khung hình phạt tù từ 02 đến 07 năm tại khoản 1 Điều 194 BLHS năm 1999. Nên khi quyết định hình phạt đối với bị cáo, HĐXX sẽ xem xét áp dụng khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 để lượng hình phạt đảm bảo chính sách khoan hồng của pháp luật cho bị cáo.
Từ những nhận định trên, trên cơ sở xem xét toàn diện tính chất, mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo giáo dục đối với bị cáo, đồng thời mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
Về hình phạt bổ sung: Qua điều tra xác minh và thẩm vấn công khai tại phiên tòa, bị cáo sống chung với gia đình, không có tài sản riêng có giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.
Về nguồn gốc ma túy: Bị cáo Trung A khai mua của một người đàn ông tên N1 không quen biết. Việc trao đổi mua bán Hêrôin chỉ có Anh và người đàn ông biết nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mai Sơn không có cơ sở, căn cứ để điều tra xác minh. Cần chấp nhận.
Về vật chứng của vụ án trong quá trình điều tra CQĐT thu giữ của bị cáo:
Đối với tang vật còn lại của vụ án T1= 0,263gam heroin; vỏ bao bì niêm phong tang vật ban đầu; 01 cân tiểu ly nhãn hiệu POCKET SCALE; 01 hộp nhựa màu trắng có kích thước 10 x 10 x 80cm; 01 hộp vỏ bao thuốc lá bằng kim loại nhãn hiệu Thăng Long có kích thước 10x10x2cm. Xét thấy là chất độc dược Nhànước cấm lưu hành và vật không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia N1280 thu giữ của bị cáo xét thấy bị cáo sử dụng làm phương tiện liên lạc trao đổi mua bán hê rô in với N1 nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.
Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Chí Trung A phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".
Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; khoản 3 Điều 7; điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015:
Xử phạt bị cáo Nguyễn Chí Trung A 16 (mười sáu) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày bắt (29.6.2017).
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
2. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự; điểm a, đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:
Tuyên tịch thu tiêu huỷ: Tang vật còn lại của vụ án T1= 0,263gam hê rô in, vỏ bao bì niêm phong tang vật ban đầu; 01 cân tiểu ly nhãn hiệu POCKET SCALE; 01 hộp nhựa màu trắng có kích thước 10 x 10 x 80cm; 01 hộp vỏ bao thuốc lá bằng kim loại nhãn hiệu Thăng Long có kích thước 10x10x2cm.
Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu NokiaN1280 thu giữ của Nguyễn Chí Trung A.
3. Áp dụng khoản 1, 2 Điều 99 BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo phải chịu án phí HSST là 200.000VNĐ (Hai trăm nghìn đồng chẵn).
Báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.
Bản án 01/2017/HSST ngày 27/10/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý
Số hiệu: | 01/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mai Sơn - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/10/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về