TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NINH THUẬN
BẢN ÁN 01/2017/HC-PT NGÀY 17/08/2017 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ RỪNG
Trong ngày 17/8/2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận tiến hành xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 02/2017/TLPT-HC ngày 11/5/2017 về việc “Khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ rừng”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 02/2017/HC-ST ngày 04/4/2017 của Tòa án nhân dân huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 02/2017/QĐ-PT ngày 04/7/2017, Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2017/QĐPT-HC ngày 19/7/2017, giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: ông Phạm Văn S, sinh năm 1968.
Địa chỉ: thôn S, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận (có mặt).
Người đại diện hợp pháp của người khởi kiện: Ông Lê Văn H, sinh năm 1974. Địa chỉ: đường D, phường A, Quận B, thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện: Ông Đỗ Hiền N - Luật sư Công ty Luật trách nhiệm hữu hạn N - Đoàn Luật sư thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
2. Người bị kiện: Hạt trưởng Hạt kiểm lâm T, tỉnh Ninh Thuận.
Địa chỉ: xã P2, huyện T, tỉnh Ninh Thuận (có mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ban quản lý rừng phòng hộ ven biển T.
Địa chỉ: xã P2, huyện T, tỉnh Ninh Thuận (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).
4. Người kháng cáo: ông Phạm Văn S, sinh năm 1968 (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Người khởi kiện - ông Phạm Văn S, đại diện theo ủy quyền - ông Lê Văn H, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp - ông Đỗ Hiền N, trình bày:
Ông S yêu cầu hủy Quyết định số 1160/QĐ-XPHC ngày 06/01/2017 của Hạt trưởng Hạt kiểm lâm T về xử phạt vi phạm hành chính (gọi tắt là Quyết định số 1160). Lý do:
Đất của UBND xã P quản lý, UBND xã đã ra quyết định xử phạt ông Lê Văn T (sinh năm sinh năm 1963, địa chỉ: thị trấn P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận) Về hành vi cất chòi trái pháp luật nhưng Hạt kiểm lâm T cũng xử phạt ông S hành vi phá rừng trên cùng lô đất này là không đúng quy định pháp luật.
Theo Quyết định số 1873 ngày 31/8/2015 của UBND tỉnh Ninh Thuận phê duyệt khu vực trồng cây phi lao tại tiểu khu 213 và tiểu khu 221 khoảnh 7 thuộc lâm phần ban quản lý rừng ven biển T (N cũ) quản lý, nhưng đất của ông S thì thuộc UBND xã P quản lý, điều đó cho thấy ban quản lý rừng trồng sai địa điểm đã phê duyệt.
Hạt kiểm lâm chỉ có chức năng bảo vệ rừng chứ không có thẩm quyền xử phạt và không có quyền áp chế người dân để ban quản lý rừng vào trồng cây trên đất của ông S. Ban quản lý rừng và Hạt kiểm lâm T không có bất cứ giấy tờ gì chứng minh khu đất trồng rừng là đúng quy định.
Ông S bức xúc có nhổ 01-02 cây non, đồng thời có canh gác cho bà L và bà H nhổ cây là để bảo vệ đất của ông S chứ không phải phá rừng. Việc Hạt trưởng Hạt kiểm lâm T lập biên bản hiện trường có nội dung ông S nhổ cây là đúng nhưng việc xử phạt ông S là sai. Thời hạn lập biên bản xử phạt và ra quyết định xử phạt ông S cũng không đúng quy định pháp luật.
Người bị kiện - Hạt trưởng Hạt kiểm lâm T trình bày:
Căn cứ vào biên bản xử phạt vi phạm hành chính, lời thừa nhận có hành vi nhổ cây của ông S và kết quả giám định diện tích đất trồng rừng bị nhổ xác định ông S có nhổ khoảng 04 cây phi lao và canh gác cho một số người khác nhổ cây phi lao trên diện tích 2.718m2 mà ban quản lý rừng đã trồng đủ căn cứ xử phạt ông S theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 20 Nghị định 157/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013 của Chính phủ.
Thẩm quyền, trình tự xử phạt là thuộc trường hợp có lập biên bản vi phạm hành chính, xác định hành vi hành chính qua sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật, vụ việc có tính chất phức tạp nên thời hạn ra quyết định xử phạt là 30 ngày đúng theo quy định tại Điều 66 Luật xử lý vi phạm hành chính.
Đất là do UBND xã P quản lý, nằm trong dự án trồng rừng, ông T cất chòi trái phép thuộc thẩm quyền xử phạt của UBND xã P.
Còn hành vi phá rừng trái phép là thuộc thẩm quyền xử phạt của Hạt trưởng Hạt kiểm lâm T.
Căn cứ xử phạt: điểm a khoản 2 Điều 20 Nghị định số 157; Mục 1 Điều 9 Thông tư số 34 ngày 10/6/2009 của Bộ nông nghiệp phát triển nông thôn xác định: đây là rừng trồng chưa thành rừng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Ban quản lý rừng phòng hộ ven biển T trình bày:
Căn cứ vào các tài liệu người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cung cấp, Ban quản lý rừng phòng hộ ven biển T trình bày:
Ban quản lý rừng phát hiện các đối tượng phá rừng tại khu vực xã P. Ban quản lý rừng đã quay phim, lập biên bản việc phá hoại rừng và chuyển hồ sơ vi phạm cho Hạt kiểm lâm T xử lý theo thẩm quyền. Sau khi Hạt kiểm lâm xác minh, ngày 06/01/2017, Hạt trưởng Hạt kiểm lâm T đã ra Quyết định số 1160 xử phạt ông S về hành vi phá rừng là đúng.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 02/2017/HC-ST ngày 04/4/2017, Tòa án nhân dân huyện Thuận Nam đã quyết định:
Căn cứ khoản 1 Điều 30, khoản 1 Điều 115, điểm a khoản 2 Điều 116, Điều 193, khoản 1 Điều 348 Luật Tố tụng hành chính năm 2015; điểm a khoản 2 Điều 20 Nghị định số 157/2013/NĐ-CP; khoản 3 Điều 43; khoản 1 Điều 66 Luật Xử lý vi phạm hành chính; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14.
Tuyên xử: Bác yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn S về yêu cầu hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 1160/QĐ-XPHC ngày 06/01/2017 của Hạt trưởng Hạt kiểm lâm T.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và báo quyền kháng cáo.
Ngày 18/4/2017, ông Phạm Văn S có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm:
- Sửa một phần Bản án hành chính sơ thẩm số 02/2017/HC-ST ngày 04/4/2017 của Tòa án nhân dân huyện Thuận Nam;
- Đình chỉ thi hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 1160/QĐ- XPHC ngày 06/01/2017 của Hạt trưởng Hạt kiểm lâm T;
- Hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 1160/QĐ-XPHC ngày 06/01/2017 của Hạt trưởng Hạt kiểm lâm T.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ban quản lý rừng phòng hộ ven biển T vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 157 Luật Tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt người này.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về hình thức: Đơn kháng cáo ông Phạm Văn S gửi đến Tòa án trong hạn luật định, hình thức phù hợp Điều 205 và Điều 206 Luật Tố tụng hành chính nên được chấp nhận.
[2] Về nội dung: Tại phiên tòa phúc thẩm, người khởi kiện không rút đơn khởi kiện. Người kháng cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo về sửa một phần Bản án hành chính sơ thẩm số 02/2017/HC-ST ngày 04/4/2017 của Tòa án nhân dân huyện Thuận Nam; đình chỉ thi hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 1160 ngày 06/01/2017 của Hạt trưởng Hạt kiểm lâm T và hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 1160 ngày 06/01/2017 của Hạt trưởng Hạt kiểm lâm T.
Các đương sự không đối thoại được với nhau về việc giải quyết vụ án. Các đương sự không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ mới.
Ý kiến của người bị kiện: Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm bác kháng cáo của ông Phạm Văn S; giữ nguyên các quyết định của bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Thuận tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng: khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, bác kháng cáo của ông Phạm Văn S, giữ nguyên quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm số 02/2017/HC-ST ngày 04/4/2017 của Tòa án nhân dân huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận.
Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày và tranh luận của các đương sự, Luật sư; phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa; Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:
[3] Tòa án cấp sơ thẩm xác định đây là vụ án “Khiếu kiện quyết định hành chính:” là có căn cứ, đúng pháp luật. Tòa án cấp phúc thẩm xác định lại quan hệ pháp luật của vụ án cho cụ thể hơn là “Khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ rừng”.
Xét kháng cáo của ông Phạm Văn S:
Về hình thức của Quyết định số 1160:
[4] Thẩm quyền: Hạt trưởng Hạt kiểm lâm T ban hành Quyết định số 1160 ngày 06/01/2017 về xử phạt vi phạm hành chính đối với ông Phạm Văn S về hành vi phá rừng trái phép là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều 43 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và Điều 81 Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004.
[5] Trình tự, thủ tục ban hành:
Ngày 15/12/2016, Hạt kiểm lâm T lập Biên bản vi phạm hành chính về quản lý rừng, phát triển rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản số 545/BB-VPHC nội dung xác định ông Phạm Văn S đã có hành vi phá rừng trái pháp luật.
Ngày 06/01/2017, Hạt trưởng Hạt kiểm lâm T ban hành Quyết định số 1160 về xử phạt vi phạm hành chính đối với ông Phạm Văn S về hành vi phá rừng pháp luật.
Như vậy, Quyết định số 1160 có hình thức phù hợp quy định tại Điều 6, Điều 58, Điều 66 Luật xử lý vi phạm hành chính.
Về nội dung của Quyết định số 1160:
[6] Quyết định số 1160 ngày 06/01/2017 của Hạt trưởng Hạt kiểm lâm T xử phạt ông Phạm Văn S về hành vi phá rừng trái phép thuộc khu vực đồi cát Mũi Dinh, xã P: Phạt hành chính 7.500.000đ; biện pháp khắc phục hậu quả: buộc trồng lại rừng diện tích 2.718m2, số lượng cây phi lao nhổ bỏ là 04 cây.
Khu vực Hạt trưởng Hạt kiểm lâm T xử phạt ông S về hành vi nhổ cây phi lao thuộc địa phận xã P, huyện T. Đây là khu vực nằm ngoài khu đo vẽ bản đồ địa chính xã P, hiện trạng không có dấu hiệu canh tác, là đồi núi chưa sử dụng do UBND xã P quản lý và hiện nay chưa có cơ quan nào lập thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất rừng sang mục đích sử dụng đất khác theo quy định tại Điều 29 Nghị định 23/2006/NĐ-CP ngày 03/3/2006 của Chính phủ về thi hành Luật bảo vệ và phát triển rừng.
Ban quản lý rừng phòng hộ T trồng phi lao tại khu vực đồi cát Mũi Dinh, xã P là đúng theo Quyết định số 1873/QĐ-UBND ngày 31/8/2015 của Chủ tịch UBND tỉnh Ninh Thuận về việc phê duyệt dự án trồng mới, phục hồi và kết hợp quản lý bảo vệ rừng chống xâm thực bờ biển thuộc địa bàn huyện T (trong đó có xã P) giai đoạn 2015-2020 và đúng theo Quyết định số 491b/QĐ-SNNPTNT ngày 24/11/2015 của Giám đốc Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Ninh Thuận về việc phê duyệt hồ sơ thiết kế kỹ thuật trồng rừng và chăm sóc rừng phi lao tại xã P, huyện T năm 2015.
Như vậy, khu vực đồi cát Mũi Dinh, xã P là đất lâm nghiệp có trồng rừng phi lao. Ông S cho rằng khu đất là của ông nhưng không đưa ra được giấy tờ gì hợp pháp chứng minh khu đất thuộc quyền sử dụng của mình. Ông S có hành vi nhổ cây phi lao do Ban quản lý rừng phòng hộ T trồng rõ ràng là trái pháp luật. Ông S thừa nhận có nhổ 04 cây phi lao, Hạt trưởng Hạt kiểm lâm T xác định ông S có hành vi nhổ 04 cây phi lao trên diện tích 2.718m2 tại khu vực đồi cát Mũi Dinh, xã P là hành vi phá rừng là có căn cứ. Số cây phi lao là cây trồng chưa thành rừng đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Thông tư số 34/2009/TT- BNNPTNT ngày 10/6/2009 của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn.
[7] Quyết định số 1160 ngày 06/01/2017 của Hạt trưởng Hạt kiểm lâm T căn cứ Biên bản vi phạm hành chính số 545/BB-VPHC ngày 15/12/2016; căn cứ theo đúng quy định tại điểm a khoản 2 Điều 20 Nghị định số 157/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013 của Chính phủ:
Điều 20. Người có hành vi chặt phá cây rừng mà không được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền bị xử phạt như sau:
2. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi phá rừng trái pháp luật thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Cây trồng chưa thành rừng hoặc rừng khoanh nuôi tái sinh thuộc kiêu trạng thái rừng 1c từ 1.500 m2 đến 5.000 m2.
Như vậy, Quyết định số 1160 có nội dung phù hợp quy định của pháp luật.
[8] Từ các nội dung trên, xét thấy, Quyết định số 1160 ngày 06/01/2017 của Hạt trưởng Hạt kiểm lâm T được ban hành đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục, nội dung phù hợp quy định của pháp luật. Yêu cầu kháng cáo của ông Phạm Văn S về việc sửa bản án sơ thẩm, đình chỉ thi hành Quyết định số 1160 và hủy Quyết định số 1160 là không có cơ sở chấp nhận. Bản án sơ thẩm không chấp nhận các yêu cầu khởi kiện của ông S là có căn cứ.
Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận, ông S phải chịu án phí hành chính theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.
Tuyên xử:
Bác kháng cáo của ông Phạm Văn S; giữ nguyên quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm số 02/2017/HC-ST ngày 04/4/2017 của Tòa án nhân dân huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận.
Căn cứ vào:
- Khoản 1 Điều 30, khoản 1 Điều 115, điểm a khoản 2 Điều 116, khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 193, khoản 1 Điều 348, khoản 1 Điều 349 Luật Tố tụng hành chính năm 2015;
- Khoản 3 Điều 43, Điều 6, Điều 58, Điều 66 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012; Điều 81 Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004;
- Điểm a khoản 2 Điều 20 Nghị định số 157/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013 của Chính phủ; khoản 1 Điều 9 Thông tư 34/2009/TT-BNNPTNT ngày 10/6/2009 của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn;
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
1. Bác yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn S về việc đình chỉ thi hành Quyết định số 1160/QĐ-XPHC ngày 06/01/2017 của Hạt trưởng Hạt kiểm lâm huyện T, tỉnh Ninh Thuận về việc xử phạt vi phạm hành chính đối với ông Phạm Văn S.
2. Bác yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn S về việc hủy Quyết định số 1160/QĐ-XPHC ngày 06/01/2017 của Hạt trưởng Hạt kiểm lâm huyện T, tỉnh Ninh Thuận về việc xử phạt vi phạm hành chính đối với ông Phạm Văn S.
Về án phí:
Ông Phạm Văn S phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hành chính sơ thẩm nhưng được khấu trừ số tiền tạm ứng đã nộp theo Biên lai thu tiền số 5694 ngày 15/02/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận.
Ông Phạm Văn S phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hành Chính phúc thẩm nhưng được khấu trừ số tiền tạm ứng đã nộp theo Biên lai thu tiền số 10939 ngày 18/4/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận.
Ông Phạm Văn S đã nộp đủ án phí hành chính sơ thẩm và án phí hành Chính phúc thẩm.
Án xử phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 17/8/2017./.
Bản án 01/2017/HC-PT ngày 17/08/2017 về khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ rừng
Số hiệu: | 01/2017/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Ninh Thuận |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 17/08/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về