Bản án  …/2019/HSST ngày 12/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN L, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN  …/2019/HSST NGÀY 12/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 09/2019/HSST ngày 30 tháng 01 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2019/HSST-QĐ ngày 28 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

* Họ và tên: Lƣơng Văn T, sinh năm 1995. Tên gọi khác: Không có. Giới tính: Nam;

- Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn A, xã T, huyện H, tỉnh L; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Nùng; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 5/12; con ông Lương Văn Ch, sinh năm 1962 và con bà Hoàng Thị M, sinh năm 1961; bị cáo chưa có vợ, con;

- Tiền án, tiền sự: Không.

- Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/10/2018 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công tỉnh Bắc Giang, có mặt tại phiên tòa.

* Ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1- Anh Hoàng Văn V, sinh năm 2001 ( vắng mặt)

2- Anh Hoàng Văn C, sinh năm 1976 (vắng mặt)

Đều cư trú: Thôn Hòa Bình, xã Hòa Sơn, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn

3- Anh Trần Minh H, sinh năm 1976 (vắng mặt)

Nơi cư trú: Khu 1, thị trấn Kép, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang

4- Anh Dương Ngọc Th, sinh năm 1993 (vắng mặt)

Nơi cư trú: thôn Bắc Lệ, xã Tân Thành, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 15 giờ 25 phút ngày 30/10/2018, tại khu vực Đồn 12, xã H, huyện L, Công an huyện Lạng Giang bắt quả tang bị cáo Lương Văn T và Hoàng Văn V, sinh năm 2001 ở thôn H1, xã H, huyện HL, tỉnh Lạng Sơn đang có hành vi tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 mảnh giấy bạc cả hai mặt màu trắng bạc, một mặt bám dính chất rắn màu nâu đen nghi là ma túy thu giữ trên nền đất trước mặt V và T đang ngồi (QT1);

- 01 vỏ bao thuốc lá “555” bên trong đựng 04 đoạn ống nhựa được hàn kín hai đầu (03 đoạn màu trắng, 01 đoạn màu tím), bên trong mỗi đoạn đều chứa chất cục bột màu trắng nghi là ma túy do T tự giác lấy từ nền đất trước mặt đang ngồi giao nộp (QT2);

-  01  điện  thoại  Nokia  màu  đen,  máy  cũ  đã  qua  sử  dụng,  số  Imei: 356866079890681, thu giữ trên nền đất trước mặt T ngồi;

-  01  điện  thoại  Microsoft  màu  đen,  máy  cũ  đã  qua  sử  dụng,  số  Imei: 358608062126345, thu giữ trên nền đất trước mặt V ngồi;

- 01 bật lửa ga màu trắng, thu giữ trên nền đất trước mặt T và V đang ngồi;

- 01 xe máy Yamaha Sirius màu đỏ- đen, BKS 12X1-049.79;

Vật chứng nghi là ma túy thu giữ khi bắt quả tang, Cơ quan điều tra đã niêm phong gửi giám định. Tại Kết luận giám định số 1476/KL- KTHS ngày 31/10/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang, kết luận:

“Trong phong bì có ký hiệu “QT1” đã được niêm phong gửi giám định:

- Chất rắn màu nâu đen (được gói bọc ngoài bằng 01 mảnh giấy bạc màu trắng bạc) là chất ma túy heroine, có khối lượng: 0,012 gam.

Trong phong bì có ký hiệu “QT2” đã được niêm phong gửi giám định:

- Trong 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu “555”: Chất cục bột màu trắng đựng trong 04 đoạn ống nhựa (trong đó 03 đoạn ống nhựa màu trắng được hàn kín hai đầu và 01 đoạn ống nhựa màu tím được hàn kín hai đầu) đều là chất ma túy heroine, có khối lượng: 0,197 gam.”(BL 33)

Tại Cơ quan điều tra, Lương Văn T và Hoàng Văn V khai nhận: Bản thân T và V đều nghiện ma túy. Khoảng 12 giờ ngày 30/10/2018, Lương Văn T đang ở nhà và gọi điện thoại cho Hoàng Văn V đến đón T ra quán Internet chơi. Khi V đến thì có anh Dương Ngọc Th, sinh năm 1992 ở Bắc Lệ, xã Tân Thành, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn gọi điện thoại cho T, T hỏi vay anh Th 400.000đ, Th đồng ý. Sau đó, V lái chiếc xe máy Yamaha Sirius màu đỏ- đen, BKS 12X1-049.79 chở T đến nhà anh Th. T và V đứng chờ ở ngoài thì Th vứt tiền ra ngoài đường cho T vay, có tiền T rủ V đi xuống thị trấn Kép, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang chơi, mục đích để mua ma túy về sử dụng. V đồng ý và chở T đi xuống thị trấn Kép. Khi đến chỗ mua ma túy, cách khoảng 100m, T bảo V dừng lại và lấy xe máy của V đi một mình đến chỗ mua ma túy. T dùng điện thoại của mình gọi vào số điện thoại 0977977552 hỏi mua 400.000đ ma túy Heroine của một người đàn ông không quen biết, người đàn ông đồng ý và bảo T thả tiền xuống đường tàu rồi chỉ dẫn T đi khoảng 15m thì có một gói giấy vệ sinh. T nhặt gói giấy vệ sinh mở ra xem thì thấy bên trong có 04 đoạn ống nhựa đều được hàn kín hai đầu (01 đoạn màu tím, 03 đoạn màu trắng) bên trong đều đựng chất ma túy Heroine và 01 gói giấy bạc bêntrong đựng ma túy Heroine. T vứt giấy gói đi và nhặt một vỏ bao thuốc lá “555” ở gần đó, T cho số ma túy vừa mua được vào trong vỏ bao thuốc lá và cầm ở tay trái, sau đó điều khiển xe quay lại đón V. Sau đó, V điều khiển xe chở Tuyền đi về, đến đoạn đường vắng cạnh đường tàu thuộc địa phận Thôn Đồn 20, xã Hương Sơn, huyện Lạng Giang, T bảo V dừng xe để sử dụng ma túy. T mở vỏ bao thuốc lá, lấy 01 gói giấy bạc đựng ma túy để sử dụng, còn 04 đoạn ống nhựa đựng ma túy trong vỏ bảo thuốc lá T để xuống đất trước mặt T. Cả T và V đang sử dụng ma túy thì bị lực lượng Công an kiểm tra bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng.

Về nguồn gốc số ma túy thu giữ của T, T khai mua của một người đàn ông không quen biết có số điện thoại là 0977.977.552. Cơ quan điều tra đã xác định chủ thuê bao số điện thoại 0977.977.552 là Trần Minh H, Sinh năm 1976 ở Khu 1, thị trấn Kép, huyện Lạng Giang. Cơ quan điều tra đã triệu tập và đấu tranh với H nhưng không chứng minh được H đã bán ma túy cho T nên không có căn cứ để xử lý.

Đối với Hoàng Văn V, V không góp tiền chung với T để mua ma túy và cũng không đi mua ma túy cùng T nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý hình sự đối với V.

Bản cáo trạng số 13/KSĐT ngày 29 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện L đã truy tố bị cáo Lương Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017

Tại phiên tòa, kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Lương Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249  , Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt bị cáo từ 15 tháng đến 18 tháng tù, miễn hình phạt bổ sung bằng tiền cho bị cáo.

Về vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 02 phong bì thư được dán kín niêm phong bằng dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang, có chữ ký của giám định viên bên trong chứa ma tuý hoàn lại sau giám định; 01 chiếc bật lửa ga có vỏ bằng nhựa màu trắng;

- Tịch  thu  sung  quỹ nhà nước:  01  chiếc điện  thoại  di động nhãn hiệu NOKIA, vỏ máy màu đen, máy cũ đã qua sử dụng, số Imei: 356866079890681 của Lương Văn T;

- Trả lại cho anh Hoàng Văn V: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Microsoft, vỏ máy màu đen, máy cũ đã qua sử dụng, số Imei: 358608062126345; trả lại cho ông Hoàng Văn Ch: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha, loại xe Sirius, màu sơn đỏ- đen, xe cũ đã qua sử dụng, BKS 12X1-049.79, có số máy 1FC1-020916, số khung RLCS1FC10DY020906;

Ngoài ra còn đề nghị xem xét về án phí, quyền kháng cáo của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Lương Văn T tại phiên tòa đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của bản thân như cáo trạng truy tố. Bị cáo nhận thức hành vi của mình đã thực hiện là sai trái, là vi phạm pháp luật và hứa cải tạo tốt, cai nghiện ma túy, sau khi chấp hành xong hình phạt tù không tái phạm.

Qúa trình điều tra, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Hoàng Văn V đề nghị xin lại 01 điện thoại di động, ông Hoàng Văn Ch đề nghị được xin lại 01 xe máy bị thu giữ;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định quyết  tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân huyện L¸ Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng các quy định về thẩm quyền, trình tự tự thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, nên các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong quá trình giải quyết vụ án đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai của bị cáo Lương Văn T tại phiên tòa đã thừa nhận bị cáo đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình, cụ thể: Hồi 15 giờ 25 phút ngày 30/10/2018, tại khu vực Đồn 12, xã H, huyện L, Lương Văn T có hành vi cất giữ trái phép 0,209 gam ma túy heroine, mục đích để sử dụng.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra cũng như vật chứng đã thu hồi, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, phù hợp với không gian, thời gian, địa điểm xảy ra hành vi phạm tội. Do đó, HĐXX đã có đầy đủ cơ sở để khẳng định Lương Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”  tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý. Bản cáo trạng Viện Kiểm sát nhân dân huyện L truy tố các bị cáo theo tội danh và điều luật như trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật

[3]. Nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải. Mặt khác, theo tài liêu của bố đẻ bị cáo xuất trình tại phiên tòa, thì thấy: Bị cáo có bố đẻ đã có nhiều thành tích trong quá trình nhập ngũ, tham gia trong quân đội Nhân dân Việt Nam, được Trung đoàn 533 Bộ quốc phòng xác nhận để đề nghị tặng thưởng Huy chương chiến sỹ vẻ vang và Bằng khen của Bộ quốc phòng, nên cần áp dụng điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Đánh giá về hành vi phạm tội của bị cáo Lương Văn T, HĐXX xét thấy hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bi cáo gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an của địa phương và sức khỏe của người khác, gây ảnh hưởng không tốt đến trật tự gia đình và xã hội và là nguyên nhân làm phát sinh 1 số tội phạm nguy hiểm khác, là con đường lây lan của một số căn bệnh xã hội. Vì vậy, HĐXX thấy cần phải xử lý nghiêm tương xứng với tính chất và mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo để nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này. Khi lượng hình, HĐXX sẽ xem xét để tuyên một mức hình phạt tù phù hợp với bị cáo.

Hiện nay, bị cáo đang bị tạm giam, để đảm bảo cho việc thi hành án, HĐXX thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo là phù hợp với Điều 329- BLTTHS.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Qua xác minh tại địa phương thấy: Lương Văn T là người nghiện ma túy, không có công ăn việc làm, không có tài sản gì, sống chung cùng gia đình nên cần miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Đối với Trần Minh H, Cơ quan điều tra đã triệu tập và đấu tranh với H nhưng không chứng minh được H đã bán ma túy cho T nên không có căn cứ để xử lý.

Đối với Hoàng Văn V, V không góp tiền chung với T để mua ma túy và cũng không đi mua ma túy cùng T nên Cơ quan điều tra, VKS cũng không có căn cứ xử lý là phù hợp.

[5]. Về xử lý Vật chứng:

- Đối với 02 phong bì thư được dán kín niêm phong bằng dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang, có chữ ký của giám định viên bên trong chứa ma tuý hoàn lại sau giám định là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành và 01 chiếc bật lửa ga có vỏ bằng nhựa màu trắng công cụ phương tiện dùng vào việc phạm tội, nên cần tịch thu tiêu hủy;

- Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, vỏ máy màu đen, máy cũ đã qua sử dụng, số Imei: 356866079890681 của Lương Văn T công cụ phương tiện dùng vào việc phạm tội, nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước;

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Microsoft, vỏ máy màu đen, máy cũ đã qua sử dụng, số Imei: 358608062126345 của Hoàng Văn V; 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha, loại xe Sirius, màu sơn đỏ- đen, xe cũ đã qua sử dụng, BKS 12X1-049.79, có số máy 1FC1-020916, số khung RLCS1FC10DY020906 của ông Hoàng Văn Ch (bố đẻ V) không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cần trả lại;

[6]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo, người người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự, các Điều 106, 135, 136, 331, 332, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Căn cứ điểm a khoản 1Điều 23 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

1. Tuyên bố bị cáo Lương Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Xử phạt: Bị cáo Lƣơng Văn T 15 ( mƣời lăm) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 30/10/2018.

2. Về vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 02 phong bì thư được dán kín niêm phong bằng dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang, có chữ ký của giám định viên bên trong chứa ma tuý hoàn lại sau giám định; 01 chiếc bật lửa ga có vỏ bằng nhựa màu trắng;

- Tịch  thu  sung  quỹ nhà nước:  01  chiếc điện  thoại  di động nhãn hiệu NOKIA, vỏ máy màu đen, máy cũ đã qua sử dụng, số Imei: 356866079890681 của Lương Văn Tuyền;

- Trả lại cho anh Hoàng Văn V: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Microsoft, vỏ máy màu đen, máy cũ đã qua sử dụng, số Imei: 358608062126345; trả lại cho ông Hoàng Văn Ch: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha, loại xe Sirius, màu sơn đỏ- đen, xe cũ đã qua sử dụng, BKS 12X1-049.79, có số máy 1FC1-020916, số khung RLCS1FC10DY020906 ( đặc điểm của vật chứng theo như Biên bản giao nhận vật chứng giữa CQĐT và Chi cục THADS huyện L).

3. Án phí: Bị cáo phải chịu số tiền 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, báo cho bị cáo có mặt biết, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kế từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

423
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án  …/2019/HSST ngày 12/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:…/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Nam - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về