BỘ
NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
05NN/ĐCĐC-KTM
|
Hà
Nội, ngày 26 tháng 3 năm 1996
|
THÔNG TƯ
CỦA BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN SỐ 05 NN/ĐCĐC-KTM
NGÀY 26 THÁNG 03 NĂM 1996 HƯỚNG DẪN THI HÀNH CHỈ THỊ SỐ 660/TTG NGÀY 17-10-1995
CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT TÌNH TRẠNG DI CƯ TỰ DO ĐẾN TÂY
NGUYÊN VÀ MỘT SỐ TỈNH KHÁC
Ngày 17-10-1995, Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành Chỉ thị số 660/TTg về việc giải quyết tình trạng di cư tự do đến
Tây Nguyên và một số tỉnh khác. Sau khi trao đổi thống nhất với Văn phòng Chính
phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội,
Uỷ ban Dân tộc và Miền núi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn một
số điểm như sau:
I. ĐỐI TƯỢNG
VÀ MỤC TIÊU ỔN ĐỊNH DÂN DI CƯ TỰ DO:
1. Đối tượng:
- Di cư tự do là đồng bào chuyển
cư ngoài kế hoạch di dân hàng năm của Nhà nước.
- Phạm vi của Thông tư này chỉ
áp dụng đối với những hộ di cư tự do đi ngoài tỉnh đến Tây Nguyên và một số tỉnh
khác từ 1995 trở về trước mà sinh sống bằng các nghề nông, lâm nghiệp, chưa được
đăng ký hộ khẩu, cấp đất sản xuất và đời sống còn nhiều khó khăn.
2. Mục tiêu:
Phấn đấu đến cuối năm 1998, giải
quyết được tình trạng di cư tự do, cụ thể là:
2.1. ổn định đời sống những hộ
đã di cư tự do; Từng bước khắc phục những khó khăn, tồn tại do tình trạng di cư
tự do gây ra như: thiếu đói, bệnh tật, thất học, tranh chấp đất đai phá rừng...
và các tệ nạn xã hội như: trộm cắp, cờ bạc, nghiện hút; để tạo điều kiện cho đồng
bào sớm hoà nhập cộng đồng, đảm bảo chính sách đoàn kết các dân tộc.
2.2. Hạn chế luồng di cư tự do từ
những địa bàn thường xảy ra tình trạng này, tiến tới kiểm soát và điều chỉnh được
hoạt động di dân phù hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước, từng vùng lãnh thổ, từng địa phương.
2.3. Năm 1996 tập trung giải quyết
những điểm có nhiều đồng bào di cư tự do mà đời sống đang còn nhiều khó khăn.
II. MỘT SỐ BIỆN
PHÁP CỤ THỂ:
Chỉ thị 660/TTg đã xác định rõ
nhiệm vụ, trách nhiệm của các tỉnh có dân đi, các tỉnh có dân đến và các ngành
các cấp; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn thêm một số biện pháp
cụ thể sau đây:
1. Đối với các
tỉnh có dân đi:
1.1. Tổ chức tuyên truyền vận động
sâu rộng để nhân dân hiểu rõ hậu quả của tình trạng di cư tự do.
Trên cơ sở quy hoạch và kế hoạch
phát triển kinh tế xã hội của địa phương tổ chức cho nhân dân phát triển sản xuất
nông, lâm, ngư công nghiệp và các ngành nghề, dịch vụ. ở những nơi cần thiết có
điều kiện thì thực hiện các dự án hoặc cho vay vốn đến hộ để phát triển kinh tế
gia đình, tạo ra nhiều việc làm trong tỉnh. Đây là biện pháp cơ bản để giải quyết
tình trạng di cư tự do.
1.2. Chỉ đạo các huyện, xã tổ chức
điều tra các hộ đã di cư tự do, chủ động phối hợp với địa phương nơi dân đến giải
quyết kịp thời các tồn tại gồm:
- Cung cấp hồ sơ, tài liệu có
liên quan để địa phương có dân đến làm các thủ tục về nhập hộ khẩu, giao đất,
giao rừng và các quyền lợi khác cho các hộ sớm ổn định đời sống, phát triển sản
xuất tại địa phương.
- Địa phương hỗ trợ trực tiếp
cho các hộ đang có nhiều khó khăn bằng tiền hoặc hiện vật.
1.3. Tập hợp, phân loại nhu cầu
các hộ có nguyện vọng di cư đến các vùng đất mới để hướng dẫn sắp xếp, bố trí
theo hướng:
- Di dân vào các dự án định canh
định cư, dự án 327, 773 và các chương trình phát triển kinh tế - xã hội khác của
địa phương và của các ngành Trung ương trên địa bàn tỉnh, huyện.
Sau khi tự cân đối sắp xếp di
dân nội tỉnh mà dân vẫn có nhu cầu đi ngoài tỉnh thì các tỉnh tập hợp, báo cáo
Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để đưa vào kế hoạch di dân
hàng năm.
1.4. Từ nay trở đi Uỷ ban nhân
dân các tỉnh, thành phố cần tăng cường công tác quản lý dân cư trên địa bàn và
chịu trách nhiệm về việc dân của tỉnh mình di cư tự do đến tỉnh khác như quy định
của Chỉ thị 660/TTg.
2. Đối với các
tỉnh có dân đến:
2.1. Tạo điều kiện làm ăn sinh sống
cho đồng bào di cư tự do đã đến có nguyện vọng lập nghiệp lâu dài, không phân
biệt đối xử, không bắt buộc đồng bào trở về quê cũ và coi đây là một nguồn lực
quan trọng của địa phương mình.
2.2. Đến hết năm 1996 các tỉnh
phải chỉ đạo các ngành soát xét lại quỹ đất trong các doanh nghiệp nhất là
nông, lâm trường tỉnh đang quản lý. Phần đất nào hiện nay chưa sử dụng hoặc sử
dụng kém hiệu quả thì giao cho chính quyền địa phương quản lý để thực hiện giao
đất cho hộ gia đình, trong đó có ưu tiên giao cho các hộ di cư tự do thuộc diện
phải giải quyết trong Chỉ thị này.
2.3. Chỉ đạo các ngành liên
quan, các huyện, xã tổ chức điều tra, phân loại số dân di cư tự do đã đến địa
phương, giải quyết theo hướng:
- Nhập hộ khẩu cho các hộ gia
đình theo hướng dẫn của Bộ Nội vụ.
- Giao đất thổ cư và đất sản xuất
cho các hộ theo khả năng quỹ đất của địa phương và chính sách của Nhà nước để
xem ghép các hộ di cư tự do vào các bản, làng, thôn, xã. Những nơi không còn đất
thì bố trí, sắp xếp các hộ này vào các dự án thuộc chương trình 327, 773, định
canh định cư, các nông, lâm trường và các chương trình phát triển kinh tế - xã
hội khác trên địa bàn.
- Đối với những điểm có đồng bào
di cư tự do sinh sống tập trung khoảng 100 hộ còn nhiều khó khăn, mà không bố
trí sắp xếp được theo các hướng trên thì UBND tỉnh chỉ đạo các ngành của tỉnh
xây dựng dự án mới để sớm ổn định đời sống cho đồng bào và gửi dự án về Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn (Cục Định canh định cư và vùng kinh tế mới) thẩm
định, đưa vào cân đối trong kế hoạch, ngân sách hàng năm của tỉnh.
2.4. Chính quyền các cấp trong tỉnh
chỉ đạo các ngành liên quan giải quyết cho các hộ di cư tự do được vay vốn phát
triển sản xuất.
2.5. Uỷ ban nhân dân các tỉnh,
thành phố chịu trách nhiệm trước Thủ tướng về việc giải quyết, ổn định đời sống
của đồng bào di cư tự do đã đến tỉnh mình như quy định của Chỉ thị 660/TTg.
3. Về chính
sách:
Việc sắp xếp ổn định dân di cư tự
do phải nghiêm túc thực hiện những chính sách đã nêu trong Chỉ thị 660/TTg của
Thủ tướng Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cụ thể hoá một số
điểm sau:
3.1. Đối với các hộ di cư tự do
nếu được bố trí sắp xếp vào các vùng dự án đã có của địa phương thì được hưởng
chế độ trợ cấp 800.000 đ/hộ theo Thông tư 15/LĐ-TBXH ngày 1-7-1995 của Bộ Lao động
- Thương binh và Xã hội. Việc bố trí sắp xếp các hộ di cư tự do cần xét đến
nguyện vọng của bà con và phù hợp với quy hoạch của địa phương.
3.2. Đối với các hộ di cư tự do
được bố trí xen ghép vào các làng, bản, thôn, xã mà ở nơi đó còn nhiều khó khăn
thì có thể được Nhà nước xét hỗ trợ về cơ sở hạ tầng, phúc lợi như: lớp học, trạm
xá, nước sinh hoạt, đường giao thông nội vùng, nước sản xuất theo kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội của địa phương. Các hộ này không được hưởng chế độ trợ cấp
di dân đi xây dựng kinh tế mới, nhưng được hưởng các chế độ chính sách hiện
hành của Nhà nước như người dân ở địa phương.
3.3. Đối với những nơi có dự án
mới để ổn định đồng bào di cư tự do đã được phê duyệt thì Nhà nước đầu tư hỗ trợ
xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội theo các hạng mục công trình đã được nêu trong dự
án. Các hộ này không được hưởng chế độ trợ cấp di dân; nhưng được hưởng các
chính sách khác về kinh tế mới.
3.4. Từ năm 1996 trở đi, những hộ
gia đình có nhu cầu chuyển cư đến các vùng trong tỉnh hoặc ngoài tỉnh theo hình
thức từ nông thôn đến nông thôn phải đăng ký trước và được chính quyền cấp huyện
nơi đi và nơi đến đồng ý, được cơ quan quản lý di dân bố trí, nhất là các hộ
thuộc diện chính sách xã hội, các hộ nghèo thì được xét hỗ trợ theo chế độ trợ
cấp di dân đi xây dựng kinh tế mới hiện hành của Nhà nước. Nếu di cư tự do sẽ bị
xử lý theo quy định quản lý của Nhà nước.
- Những kẻ lừa đảo, dụ dỗ động
bào rời bỏ quê hương để trục lợi, lợi dụng di cư để hoạt động phi pháp phải bị
xử lý nghiêm minh theo pháp luật.
III. TỔ CHỨC
THỰC HIỆN
1. Ở Trung ương:
1.1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Uỷ ban Dân
tộc và Miền núi và các Bộ, ngành liên quan hướng dẫn, kiểm tra các địa phương
có nhiều đồng bào di cư tự do đi và đến, thực hiện Chỉ thị 660/TTg của Thủ tướng
Chính phủ.
1.2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn giao cho Cục Định canh định cư và vùng kinh tế mới giúp Bộ chỉ đạo và
hướng dẫn thực hiện, thẩm định các dự án đầu tư ổn định dân di cư tự do và tổng
hợp kế hoạch hàng năm của các tỉnh để trình Bộ.
2. Ở địa phương:
1. Uỷ ban nhân dân các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo các ngành liên quan trong tỉnh để phối
hợp giải quyết tình trạng di cư tự do, sắp xếp ổn định số dân di cư tự do đã đến
địa phương báo cáo kết quả với Thủ tướng Chính phủ và Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn. Trước mắt các tỉnh cần lập các dự án sắp xếp ổn định dân tự do
gửi về Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để xem xét khả năng xin bổ sung
hoặc điều chỉnh kế hoạch năm 1996.
2. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương giao cho Chi cục (hoặc Ban) Định canh định cư và kinh
tế mới làm cơ quan thường trực giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo thực hiện nhiệm
vụ này ở địa phương.
Thông tư này có hiệu lực từ ngày
ký.
Trong quá trình tổ chức thực hiện
nếu có vướng mắc, đề nghị Uỷ ban nhân dân các tỉnh phản ánh về Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn nghiên cứu, giải quyết.