PHỦ
THỦ TƯỚNG
******
|
VIỆT
NAM
DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
353-TTg
|
Hà
Nội, ngày 06 tháng 09 năm 1961
|
THÔNG TƯ
VỀ VIỆC ÁP DỤNG CHẾ ĐỘ HỢP ĐỒNG KINH TẾ ĐỐI VỚI CÁC XÍ NGHIỆP
CÔNG TƯ HỢP DOANH
Kính gửi
|
- Các Bộ
-
Các Tổng cục
-
Các Ủy ban hành chính khu, thành và tỉnh
|
Cho đến cuối năm 1960, việc cải
tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh bằng hình thức cao về căn bản đã hoàn
thành: Các xí nghiệp công tư hợp doanh về căn bản là xí nghiệp xã hội chủ
nghĩa, tư liệu sản xuất chuộc lại của nhà tư sản đã thuộc sở hữu của toàn
dân. Ngoài tư sản không còn quyền chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất mà hàng
tháng chỉ được hưởng định tức.
Hiện nay ngoài các cửa hàng công
tư hợp doanh về thương nghiệp ra thì các xí nghiệp công tư hợp doanh về công
nghiệp, về vận tải đều đã thực hiện ký kết hợp đồng kinh tế với các xí nghiệp
quốc doanh, các cơ quan Nhà nước và các đơn vị bộ đội. Việc ký kết phần lớn vẫn
còn mang tính chất chế độ, giao kèo lúc trước, không toàn diện và thiếu chặt chẽ.
Việc thực hiện những hợp đồng còn gặp nhiều mắc mứu: kế hoạch sản xuất đặt chưa
sát với khả năng của xí nghiệp về thiết bị và nhân lực - việc cung cấp nguyên vật
liệu không đủ và không kịp thời – quy cách phẩm chất mặt hàng, vấn đề giá cả, vấn
đề tiêu thụ chưa được quy định rõ ràng. Tình hình này không còn phù hợp với sự
phát triển của các xí nghiệp công tư hợp doanh hiện nay ngày càng có những điều
kiện thuận lợi để ký kết và thực hiện chế độ hợp đồng kinh tế.
Căn cứ vào tình hình cụ thể nói
trên, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nghị định số 65-CP ngày 23 tháng 11 năm
1960 áp dụng chế độ hợp đồng kinh tế đối với các tổ chức công tư hợp doanh về vận
tải và công thương nghiệp đã thực hiện hạch toán kinh tế, trên cơ sở đó mối
quan hệ giữa các cơ quan Nhà nước, các xí nghiệp quốc doanh và các tổ chức
công tư hợp doanh được tăng cường và phát triển, vai trò chủ đạo của các
xí nghiệp quốc doanh càng được củng cố và mở rộng, việc quản lý kinh doanh và
khả năng thực hiện kế hoạch Nhà nước của các tổ chức công tư hợp doanh càng được
nâng cao.
Sau khi Nghị định số 65-CP được
ban hành, Bộ Công nghiệp nhẹ và Ủy ban hành chính Hà Nội đã tiến hành làm thí
điểm ở một số xí nghiệp công tư hợp doanh thuộc Hà Nội. Căn cứ báo cáo kết quả
của đợt thí điểm và để phát huy tác dụng của Nghị định số 65-CP nói trên, Phủ
Thủ tướng xét cần quy định một số điểm cụ thể sau đây hướng dẫn các ngành, các
cấp để đẩy mạnh ký kết hợp đồng kinh tế đối với các xí nghiệp công tư hợp
doanh:
1. Chỉ
áp dụng chế độ hợp đồng kinh tế đối với các xí nghiệp công tư hợp doanh vận tải
và công thương nghiệp đã hạch toán kinh tế. Những xí nghiệp này phải có những
điều kiện sau đây:
- Có kế hoạch sản xuất, tài vụ
do cơ quan cấp trên chuẩn y.
- Có đủ vốn cần thiết như tài sản
cố định, vốn lưu động… để thực hiện kế hoạch sản xuất, chịu trách nhiệm trước
Nhà nước về việc sử dụng vốn được tốt và hợp lý đồng thời giữ gìn và mở rộng những
vốn đó.
- Có chế độ kế toán kiện toàn và
độc lập và có mở tài khoản ở Ngân hàng Nhà nước.
Đối với các xí nghiệp công tư hợp
doanh chưa hạch toán kinh tế thì tạm thời có thể tiến hành ký kết hợp đồng trên
cơ sở dân chủ thương lượng, bàn bạc với tinh thần bình đẳng, hai bên thỏa thuận
ký kết chứ không có tính chất bắt buộc. Những điều khoản đã thỏa thuận sau khi
ký kết cần được báo cáo với Hội đồng Trọng tài Bộ và địa phương và cả hai bên
ký kết hợp đồng đều phải nghiêm chỉnh chấp hành.
Một số xí nghiệp công tư hợp
doanh sản xuất có tính chất phục vụ thuộc ngành Nội thương như sản xuất bánh mứt
kẹo v.v… nếu có đủ điều kiện thì cũng ký kết hợp đồng kinh tế theo quy định
trên.
Các cơ quan kinh tế quản lý các
xí nghiệp công tư hợp doanh cụ thể là các Bộ chủ quản, các Sở, Ty Vận tải và
Công thương nghiệp sẽ quy định hình thức, mẫu mực hợp đồng cho thích hợp. Việc
lãnh đạo sản xuất đạt kế hoạch và định giá thành vẫn do cơ quan trực tiếp quản
lý quyết định theo đúng các thể lệ hiện hành.
Các cửa hàng công tư hợp doanh
thương nghiệp hiện nay chưa phải là đơn vị hạch toán độc lập mà thực tế chỉ là
các cửa hàng bán lẻ của Mậu dịch nên không ký kết hợp đồng kinh tế.
2. Đối với
các xí nghiệp công tư hợp doanh công nghiệp và vận tải thì cần lấy đơn vị kinh
doanh hiện nay làm cơ sở để ký kết hợp đồng kinh tế (không lấy đơn vị xí nghiệp
cũ bây giờ đã bị sát nhập với nhiều đơn vị khác hoặc chỉ là một phân xưởng của
xí nghiệp hiện tại).
3. Chánh,
Phó giám đốc hay Chánh Phó quản đốc xí nghiệp công tư hợp doanh được Ủy ban
hành chính địa phương hay Bộ chủ quản bổ nhiệm sẽ đứng ra thay mặt toàn thể xí
nghiệp ký kết và bảo đảm thực hiện hợp đồng. Trường hợp thật đặc biệt cần ủy
quyền thì phải được cơ quan quản lý cấp trên duyệt và người ủy quyền vẫn phải
chịu trách nhiệm như chính mình đã ký theo đúng tinh thần của bản điều lệ tạm
thời về chế độ hợp đồng kinh tế.
4. Cơ sở
ký kết hợp đồng kinh tế là chỉ tiêu kế hoạch của xí nghiệp công tư hợp doanh do
cơ quan trực tiếp quản lý giao, cụ thể là các Sở, Ty Vận tải và Công thương
nghiệp, căn cứ vào các chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước đã được ban hành. Nếu là một
xí nghiệp công tư hợp doanh do một Bộ quản lý thì do Bộ chủ quản giao chỉ tiêu
kế hoạch.
5. Các
xí nghiệp công tư hợp doanh chỉ ký hợp đồng cụ thể với các cơ quan Nhà nước,
các xí nghiệp quốc doanh hoặc với các xí nghiệp công tư hợp doanh khác sau khi
các Bộ và các Ủy ban hành chính khu, thành phố, tỉnh đã ký hợp đồng nguyên tắc
với nhau. Riêng với năm 1961 là năm đầu mở rộng diện ký kết hợp đồng kinh tế đến
các xí nghiệp công tư hợp doanh mà việc hướng dẫn ký kết làm lại có phần chưa kịp
thời nên các xí nghiệp công tư hợp doanh nếu xét cần thiết có thể ký hợp đồng cụ
thể trước. Số liệu ký kết hợp đồng cụ thể phải nhất trí với chỉ tiêu kế hoạch
đã được cấp có thẩm quyền xét duyệt.
6. Mọi
việc thanh toán theo hợp đồng đều phải qua Ngân hàng Nhà nước theo chế độ hiện
hành.
7. Xí
nghiệp công tư hợp doanh có điều kiện ký kết hợp đồng kinh tế mà từ chối ký kết
hoặc vi phạm hợp đồng đã ký kết sẽ do Hội đồng Trọng tài các cấp xử lý. Nếu Hội
đồng Trọng tài quyết định phải bồi thường thì xí nghiệp công tư hợp doanh sẽ
trích quỹ lưu động của xí nghiệp để bồi thường.
8. Thông
tư này chỉ áp dụng đối với các tổ chức công tư hợp doanh đã hạch toán kinh tế.
Còn việc ký kết hợp đồng kinh tế với các hợp tác xã tiểu thủ công, vận tải và
nông nghiệp đã có Thông tư số 103-TTg ngày 18/3/1961 của Thủ tướng Chính phủ hướng
dẫn riêng.
Việc mở rộng chế độ hợp đồng
kinh tế với các tổ chức công tư hợp doanh là một công tác mới mẻ, trong lúc cán
bộ quản lý của các tổ chức đó chưa có nhiều kinh nghiệm. Đề nghị các Bộ, các Ủy
ban hành chính khu, thành phố, tỉnh và Hội đồng Trọng tài các cấp trên tinh thần
tích cực và toàn diện, tìm mọi biện pháp hướng dẫn, giúp đỡ các xí nghiệp công
tư hợp doanh mọi điều kiện trong việc ký kết hợp đồng kinh tế. Trong khi thực
hiện cần chú ý rút những kinh nghiệm và kịp thời phổ biến để việc ký kết hợp đồng
đạt được nhiều kết quả.
Cụ thể một số công việc phải làm
là:
- Các cơ quan kinh tế chủ quản
phải theo dõi nắm vững xí nghiệp, củng cố và tăng cường sự lãnh đạo ở các xí
nghiệp, củng cố và tăng cường sự lãnh đạo ở các xí nghiệp đó, đôn đốc hướng dẫn
giúp đỡ xí nghiệp xây dựng kế hoạch và ký kết hợp đồng cũng như thực hiện hợp đồng
đã ký kết theo đúng bản điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế.
- Các cơ quan công thương nghiệp
phải hướng dẫn các xí nghiệp công tư hợp doanh về kỹ thuật, giúp đỡ họ về mặt
quản lý, đảm bảo cung cấp kịp thời và đầy đủ các nguyên vật liệu cần thiết và
có biện pháp tiêu thụ sản phẩm làm ra. Cần phải nhận rõ rằng các xí nghiệp công
tư hợp doanh về căn bản đã là xí nghiệp xã hội chủ nghĩa, lợi ích của xí nghiệp
công tư hợp doanh nhất trí với lợi ích của quốc doanh để giải quyết đúng đắn mọi
nhiệm vụ, chủ trương, chính sách cụ thể, nhằm đẩy mạnh sản xuất.
- Các Bộ, các cơ quan hữu quan
trong phạm vi quyền hạn của mình cần nghiên cứu ban hành những chế độ cụ thể
như về lương bổng công nhân, thuế khóa, khấu hao, nộp lãi, giá cả cung cấp
nguyên vật liệu cũng như giá cả thu mua sản phẩm, v.v…
|
KT. THỦ TƯỚNG
CHÍNH PHỦ
PHÓ THỦ TƯỚNG
Lê Thanh Nghị
|