CHÍNH
PHỦ
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 33/2020/NĐ-CP
|
Hà
Nội, ngày 17 tháng 3
năm 2020
|
NGHỊ ĐỊNH
SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA NGHỊ ĐỊNH SỐ 62/2015/NĐ-CP NGÀY 18
THÁNG 7 NĂM 2015 CỦA CHÍNH PHỦ QUY ĐỊNH CHI TIẾT VÀ HƯỚNG DẪN THI HÀNH MỘT SỐ
ĐIỀU CỦA LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 19 tháng 6 năm 2015;
Căn cứ Luật Thi hành án dân sự ngày 14 tháng 11 năm 2008;
Căn cứ Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Thi hành án dân sự ngày 25 tháng 11 năm
2014;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư
pháp;
Chính
phủ ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Thi
hành án dân sự.
Điều 1. Sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2015 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành
án dân sự
1. Khoản 3 Điều 3 được sửa đổi,
bổ sung như sau:
“3. Hết thời hạn 01 năm, kể từ ngày bản
án, quyết định có hiệu lực pháp luật mà cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp được thi
hành án đối với khoản tiền, tài sản thuộc sở hữu nhà nước không yêu cầu thi
hành án thì cơ quan, tổ chức quản lý trực tiếp; cơ quan đại diện chủ sở hữu của
cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đó có trách nhiệm chỉ đạo việc yêu cầu thi hành
án.”
2. Điểm b khoản 3 và điểm đ khoản 4 Điều 4 được sửa đổi, bổ sung như sau:
a) Điểm b khoản 3 Điều
4 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“b) Trở ngại khách quan là trường hợp
đương sự không nhận được bản án, quyết định mà không phải do lỗi của họ; đương
sự đi công tác ở vùng biên giới, hải đảo mà không thể yêu
cầu thi hành án đúng hạn; tai nạn, ốm
nặng đến mức mất khả năng nhận thức hoặc đương sự chết mà chưa xác định được
người thừa kế; tổ chức hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải thể, chuyển đổi
hình thức, chuyển giao bắt buộc, chuyển nhượng toàn bộ cổ phần, phần vốn góp mà
chưa xác định được tổ chức, cá nhân mới có quyền yêu cầu thi hành án theo quy định
của pháp luật hoặc do lỗi của cơ quan xét xử, cơ quan thi hành án hoặc cơ quan,
cá nhân khác dẫn đến việc đương sự không thể yêu cầu thi hành án đúng hạn.”
b) Điểm đ khoản 4 Điều
4 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“đ) Đối với trường hợp hợp nhất, sáp
nhập, chia, tách, giải thể, chuyển đổi hình thức, chuyển giao bắt buộc, chuyển
nhượng toàn bộ cổ phần, phần vốn góp thì phải có văn bản hợp pháp chứng minh thời
gian chưa xác định được tổ chức, cá nhân mới có quyền yêu cầu thi hành án.”
3. Khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 5 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“2. Trường hợp cơ quan thi hành án
dân sự đã ra quyết định thi hành án, đương sự vẫn có quyền tự thỏa thuận thi
hành án. Thỏa thuận phải bằng văn bản thể hiện rõ thời gian, địa điểm, nội dung
thỏa thuận, thời hạn thực hiện thỏa thuận, hậu quả pháp lý đối với việc không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nội dung đã thỏa thuận, có chữ ký hoặc điểm
chỉ của các bên tham gia. Đương sự phải chịu trách nhiệm về nội dung thỏa thuận
không vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội, không đúng với thực tế,
làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba hoặc nhằm trốn
tránh phí thi hành án.
Trường hợp các bên không tự nguyện thực
hiện theo đúng nội dung đã thỏa thuận thì cơ quan thi hành án dân sự căn cứ nội
dung quyết định thi hành án và kết quả đã thi hành theo thỏa thuận, đề nghị của
đương sự để tổ chức thi hành, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này.
3. Trường hợp cơ quan thi hành án dân
sự đang tổ chức thi hành án mà đương sự thỏa thuận về việc không yêu cầu cơ
quan thi hành án dân sự tiếp tục thi hành một phần hoặc toàn bộ quyết định thi
hành án thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định đình chỉ thi
hành án đối với nội dung thỏa thuận đó theo quy định tại điểm c
khoản 1 Điều 50 Luật Thi hành án dân sự.
Trường hợp đương sự thỏa thuận đình
chỉ thi hành án sau thời điểm tài sản đã được bán đấu giá thành hoặc đã bán cho
đồng sở hữu hoặc người được thi hành án đã đồng ý nhận tài sản để trừ vào tiền
thi hành án mà chưa giao được tài sản cho họ thì việc thỏa thuận phải được sự đồng
ý của người trúng đấu giá, người mua tài sản hoặc người nhận tài sản.
Sau khi có quyết định đình chỉ thi
hành án của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, đương sự không có quyền yêu
cầu thi hành án trở lại đối với nội dung đã đình chỉ thi hành.
4. Khi đương sự có yêu cầu, Chấp hành
viên có trách nhiệm chứng kiến và ký tên vào văn bản thỏa thuận trong trường hợp
quy định tại khoản 2, khoản 3 của Điều này. Việc chứng kiến thỏa thuận phải được
thực hiện tại trụ sở cơ quan thi hành án dân sự. Trường hợp phát hiện thỏa thuận
vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội, không đúng với thực tế, làm ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba hoặc nhằm trốn tránh phí
thi hành án thì Chấp hành viên từ chối chứng kiến thỏa thuận nhưng phải nêu rõ
lý do từ chối vào biên bản thỏa thuận.”
4. Khoản 1 và khoản 3 Điều 6 được
sửa đổi, bổ sung như sau:
“1. Thủ trưởng cơ quan thi hành án
dân sự ra một quyết định thi hành án chung đối với các khoản thuộc diện chủ động
thi hành trong một bản án, quyết định, trừ các trường hợp sau đây:
a) Có người được trả lại tiền, tài sản
thì ra một quyết định thi hành án đối với người đó.
b) Có người phải thi hành nhiều khoản
khác nhau thì ra một quyết định thi hành án đối với người đó.
c) Một người vừa có quyền, vừa có
nghĩa vụ thì ra một quyết định thi hành án đối với người đó.
3. Các khoản thu khác cho Nhà nước
thuộc diện cơ quan thi hành án chủ động ra quyết định thi hành án quy định tại điểm c khoản 2 Điều 36 Luật Thi hành án dân sự bao gồm: Khoản
truy thu thuế; khoản viện trợ cho Nhà nước; khoản bồi thường cho Nhà nước, cơ
quan nhà nước hoặc doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn
điều lệ trong các vụ án xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, tham nhũng; khoản thu
nộp trực tiếp vào ngân sách nhà nước.”
5. Khoản 1 và khoản 4 Điều 7 được
sửa đổi, bổ sung như sau:
“1. Thủ trưởng cơ quan thi hành án
dân sự ra một quyết định thi hành án cho mỗi yêu cầu thi hành án. Trường hợp
trong bản án, quyết định có một người phải thi hành án cho nhiều người và các
đương sự yêu cầu thi hành án vào cùng thời điểm thì Thủ trưởng cơ quan thi hành
án dân sự ra một quyết định thi hành án chung cho nhiều yêu cầu.
Trường hợp nhiều người được nhận một
tài sản cụ thể hoặc nhận chung một khoản tiền theo bản án, quyết định, nhưng chỉ
có một hoặc một số người có yêu cầu thi hành án thì Thủ trưởng cơ quan thi hành
án dân sự ra quyết định thi hành án theo đúng nội dung bản án, quyết định.
4. Cơ quan thi hành án dân sự từ chối
yêu cầu thi hành án đối với bản án, quyết định không làm phát sinh quyền, nghĩa
vụ của các đương sự theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 31 Luật
Thi hành án dân sự trong trường hợp bản án, quyết định không xác định rõ
khoản phải thi hành hoặc không xác định rõ người phải thi hành án, trừ các trường
hợp:
a) Giao quyền sở hữu, sử dụng, quản
lý tài sản mà tại thời điểm yêu cầu thi hành án, người được thi hành án không
được trực tiếp quản lý, sử dụng tài sản;
b) Giao quyền nuôi dưỡng người chưa
thành niên mà tại thời điểm yêu cầu thi hành án, người được thi hành án không
được trực tiếp nuôi dưỡng;
c) Giao quyền thăm nom, chăm sóc người
chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người không có khả năng lao
động cho người được thi hành án không trực tiếp nuôi dưỡng.”
6. Khoản 2 và khoản 6 Điều 9 được
sửa đổi, bổ sung như sau:
“2. Trường hợp cần xác minh làm rõ
thông tin về tài sản, nơi cư trú, nơi làm việc, trụ sở của người phải thi hành
án hoặc các thông tin khác liên quan đến việc thi hành án thì Thủ trưởng cơ
quan thi hành án dân sự có thể ủy quyền xác minh cho cơ quan thi hành án dân sự
nơi có thông tin.
Việc ủy quyền xác minh của cơ quan
thi hành án dân sự phải bằng văn bản, nêu rõ nội dung ủy quyền và nội dung cần
thiết khác. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự nơi nhận ủy quyền phải chịu
trách nhiệm về kết quả xác minh theo nội dung ủy quyền, trả lời bằng văn bản về
kết quả xác minh cho cơ quan thi hành án dân sự đã ủy quyền trong thời hạn sau
đây:
a) Đối với việc xác minh tài sản là bất
động sản, động sản phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng, thời hạn trả lời kết quả
xác minh không quá 30 ngày, kể từ ngày nhận được ủy quyền. Trường hợp khó khăn,
phức tạp thì thời hạn gửi kết quả xác minh có thể kéo dài
nhưng không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được ủy quyền.
b) Đối với việc xác minh các loại tài
sản và thông tin khác, thời hạn trả lời kết quả xác minh
không quá 15 ngày, kể từ ngày nhận được ủy quyền.
6. Việc thi hành án chưa có điều kiện
quy định tại khoản 5 Điều này được thống kê riêng để theo dõi. Khi có thông tin
mới về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án thì Chấp hành viên tiến
hành xác minh và tổ chức thi hành án theo quy định tại khoản 4 Điều này.”
7. Khoản 2 Điều 12 được sửa
đổi, bổ sung như sau:
“2. Trường hợp người được thông báo
là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt thì việc thông báo cho họ
thông qua người thân thích được thực hiện theo quy định tại khoản
2 Điều 40 Luật Thi hành án dân sự.
Trường hợp đương
sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu được nhận thông báo bằng điện
tín, fax, email hoặc hình thức khác thì việc thông báo trực tiếp có thể được thực
hiện theo hình thức đó nếu không gây trở ngại cho cơ quan thi hành án dân sự.”
8. Khoản 1 Điều 13 được sửa
đổi, bổ sung như sau:
“1. Chấp hành viên căn cứ vào nội
dung bản án, quyết định; quyết định thi hành án; tính chất,
mức độ, nghĩa vụ thi hành án; điều kiện của người phải thi hành án; yêu cầu bằng
văn bản của đương sự và tình hình thực tế của địa phương để lựa chọn việc áp dụng
các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án thích hợp.
Chấp hành viên được áp dụng biện pháp
bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án trong trường hợp thi hành quyết định
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định tại Điều 130
Luật Thi hành án dân sự.
Việc áp dụng biện pháp bảo đảm, cưỡng
chế thi hành án phải tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi hành án và các
chi phí thi hành án theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp tài sản duy nhất
của người phải thi hành án lớn hơn nhiều lần so với nghĩa vụ thi hành án mà tài
sản đó không thể phân chia được hoặc việc phân chia làm giảm đáng kể giá trị của
tài sản; tài sản bảo đảm đã được bản án, quyết định tuyên xử lý để thi hành án
hoặc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 24 Nghị định này.
Trường hợp đương sự, người đang quản
lý, sử dụng, bảo quản tài sản không thực hiện theo yêu cầu của Chấp hành viên
thì tùy từng trường hợp cụ thể mà Chấp hành viên tổ chức cưỡng chế mở khóa, mở
gói; buộc ra khỏi nhà, công trình xây dựng, tài sản gắn liền với đất hoặc các
biện pháp cần thiết khác để kiểm tra hiện trạng, thẩm định giá, bán đấu giá tài
sản hoặc giao tài sản cho cá nhân, tổ chức khác bảo quản theo quy định của pháp
luật.
Trường hợp sau khi áp dụng biện pháp
cưỡng chế mà không thực hiện được việc giao bảo quản đối với
tài sản theo quy định tại Điều 58 Luật Thi hành án dân sự
thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân cấp
xã phối hợp, hỗ trợ bảo quản trong thời gian chưa xử lý được tài sản.”
9. Khoản 1, khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 16 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“1. Căn cứ bản án, quyết định được
thi hành hoặc kết quả xác minh, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ủy
thác thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự nơi người phải thi hành án có
tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở.
2. Trường hợp người phải thi hành án
có nhiều tài sản ở nhiều nơi thì cơ quan thi hành án dân sự thực hiện ủy thác
theo thứ tự sau đây:
a) Theo thỏa thuận của đương sự;
b) Nơi có tài sản đủ để thi hành án;
c) Nơi có tổng giá trị tài sản lớn nhất.
3. Trường hợp bản án, quyết định
tuyên tài sản bảo đảm cho khoản phải thi hành án cụ thể mà tài sản đó ở nơi
khác thì phải ủy thác khoản phải thi hành án đó đến cơ quan thi hành án dân sự
nơi có tài sản bảo đảm.
Trường hợp tài sản đang xử lý để thi
hành án nhưng có tranh chấp và đã được tòa án thụ lý giải quyết mà đương sự có
tài sản ở địa phương khác thì ủy thác đến cơ quan thi hành án dân sự nơi có tài
sản để thi hành án.
Cơ quan thi hành án nơi ủy thác phải
thường xuyên cập nhật, theo dõi và thông báo ngay cho cơ quan thi hành án nhận ủy
thác biết kết quả giải quyết tranh chấp của Tòa án để phối hợp tổ chức thi hành
án. Cơ quan thi hành án nơi nhận ủy thác phải kịp thời thông báo tiến độ, kết
quả xử lý tài sản cho cơ quan ủy thác thi hành án để theo dõi, phối hợp trong
việc tổ chức thi hành án.
4. Quyết định ủy thác thi hành án phải
ghi rõ nội dung ủy thác, khoản đã thi hành xong, khoản tiếp tục thi hành và các
thông tin cần thiết cho việc thực hiện ủy thác.
Khi gửi quyết định ủy thác thi hành
án, cơ quan thi hành án dân sự phải gửi kèm theo bản án, quyết định; bản sao biên
bản kê biên, tạm giữ tài sản và các tài liệu khác có liên quan, nếu có. Trong
trường hợp phải ủy thác cho nhiều nơi thì Chấp hành viên sao chụp bản án, quyết
định và các tài liệu khác có liên quan thành nhiều bản, có đóng dấu của cơ quan
thi hành án dân sự nơi ủy thác để gửi cho cơ quan thi hành án dân sự nơi nhận ủy
thác.
Các quyết định áp dụng biện pháp bảo
đảm thi hành án, quyết định tạm hoãn xuất cảnh và các quyết định về thi hành án
khác liên quan đến khoản ủy thác có hiệu lực cho đến khi có quyết định thay thế
của cơ quan nhận ủy thác.”
10. Khoản 1 và khoản 2 Điều 17 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“1. Chấp hành viên tổ chức định giá
tài sản để thực hiện việc thi hành án khi có thay đổi giá tài sản tại thời điểm
thi hành án theo quy định tại Điêu 59 Luật Thi hành án dân sự
khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người phải thi hành án không tự
nguyện giao tài sản hoặc không tự nguyện thanh toán giá trị tài sản theo nội
dung bản án, quyết định khi đã hết thời hạn quy định tại khoản
1 Điều 45 Luật Thi hành án dân sự;
b) Có ít nhất một trong các đương sự
có đơn yêu cầu định giá tài sản và đã nộp tạm ứng chi phí định giá tài sản;
c) Tại thời điểm thi hành án, giá tài
sản thay đổi tăng hoặc giảm từ 20% trở lên so với giá trị tài sản khi bản án,
quyết định có hiệu lực pháp luật.
2. Người có đơn yêu cầu định giá tài
sản có trách nhiệm cung cấp tài liệu chứng minh có thay đổi giá tài sản, kèm
theo đơn yêu cầu định giá tài sản. Tài liệu chứng minh có thay đổi giá tài sản
có thể là khung giá do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định được áp dụng tại
địa phương hoặc giá thị trường phổ biến của tài sản giống hệt hoặc tương tự với
tài sản cần định giá tại địa phương hoặc giá chuyển nhượng thực tế ở địa phương
của tài sản cùng loại.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ
ngày nhận được đơn yêu cầu định giá tài sản của đương sự và tài liệu chứng minh
có thay đổi giá tài sản, Chấp hành viên phải tiến hành thủ tục định giá theo
quy định tại Điều 98 của Luật Thi hành án dân sự. Chi phí định
giá do người yêu cầu định giá chịu.”
11. Khoản 1 và khoản 6 Điều 24 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“1. Trường hợp tài sản đã bị áp dụng
biện pháp ngăn chặn, biện pháp khẩn cấp tạm thời, biện pháp
bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án mà phát sinh các giao dịch
liên quan đến tài sản đó thì tài sản đó bị kê biên, xử lý để thi hành án. Chấp
hành viên có văn bản yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đối với tài sản đó vô hiệu
hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến
giao dịch đối với tài sản đó.
Trường hợp có giao dịch về tài sản mà
người phải thi hành án không sử dụng toàn bộ khoản tiền thu được từ giao dịch
đó để thi hành án và không còn tài sản khác hoặc có tài sản khác nhưng không đủ
để bảo đảm nghĩa vụ thi hành án thì xử lý như sau:
a) Trường hợp có giao dịch về tài sản nhưng chưa hoàn thành việc chuyển quyền sở hữu,
sử dụng thì Chấp hành viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản theo quy định. Khi
kê biên tài sản, nếu có tranh chấp thì Chấp hành viên thực hiện theo quy định tại
khoản 1 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự, trường hợp cần
tuyên bố giao dịch vô hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên
quan đến giao dịch thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều
75 Luật Thi hành án dân sự.
Trường hợp có giao dịch về tài sản kể từ thời điểm bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật nhưng đã hoàn thành việc chuyển quyền sở hữu, sử dụng thì Chấp hành
viên không kê biên tài sản mà thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự và có văn bản thông
báo cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để phối hợp tạm dừng việc
đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản.
Việc xử lý tài sản được thực hiện
theo quyết định của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền.
b) Trường hợp có các giao dịch khác
liên quan đến tài sản mà không chuyển giao quyền sở hữu
tài sản, quyền sử dụng đất cho người khác thì Chấp hành
viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản để thi hành án. Quyền và lợi ích hợp pháp
của người tham gia giao dịch được thực hiện theo quy định
của pháp luật về dân sự và các quy định của pháp luật có liên quan.
6. Trường hợp người phải thi hành án
tự nguyện giao tài sản theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 7a
Luật Thi hành án dân sự để thi hành nghĩa vụ trả tiền thì Chấp hành viên lập
biên bản về việc tự nguyện giao tài sản. Biên bản này là cơ sở để Chấp hành
viên giao tài sản theo thỏa thuận hoặc tổ chức việc định giá, bán tài sản và
xác định thứ tự ưu tiên thanh toán. Chi phí định giá, bán tài sản và các chi
phí cần thiết khác theo quy định của pháp luật do người phải thi hành án chịu.
Trường hợp đương sự tự nguyện giao nhà ở là tài sản duy nhất nhưng số tiền thu
được không đủ để thanh toán các nghĩa vụ thi hành án mà người phải thi hành án không còn đủ tiền để thuê nhà ở hoặc tạo lập nơi ở mới thì Chấp hành
viên thực hiện theo quy định tại khoản 5 Điều 115 Luật Thi hành
án dân sự.”
12. Khoản 1, khoản 3 và khoản 5 Điều 27 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“1. Trước khi bán đấu giá tài sản lần
đầu đối với tài sản thuộc sở hữu chung mà có nhiều chủ sở hữu chung đề nghị mua
phần tài sản của người phải thi hành án theo giá đã định thì Chấp hành viên
thông báo cho các chủ sở hữu chung đó thỏa thuận người được quyền mua. Nếu
không thỏa thuận được thì Chấp hành viên tổ chức bốc thăm để chọn ra người được
mua tài sản.
3. Trường hợp trong cùng một cuộc đấu
giá mà có nhiều tài sản được đấu giá để thi hành án thì cơ quan thi hành án dân
sự yêu cầu tổ chức đấu giá thực hiện việc đấu giá theo thứ tự từ tài sản có giá
trị lớn nhất. Trường hợp số tiền thu được đã đủ để thi hành nghĩa vụ và các chi
phí theo quy định thì không tiếp tục đấu giá các tài sản còn lại.
Người mua được tài sản bán đấu giá phải
nộp tiền vào tài khoản của cơ quan thi hành án dân sự trong thời hạn không quá
30 ngày, kể từ ngày đấu giá thành và không được gia hạn thêm.
Trong thời hạn không quá 30 ngày, trường
hợp khó khăn, phức tạp thì không quá 60 ngày, kể từ ngày người mua được tài sản
nộp đủ tiền, cơ quan thi hành án dân sự phải tổ chức việc
giao tài sản cho người mua được tài sản, trừ trường hợp có sự kiện bất khả
kháng.
Tổ chức đấu giá tài sản có trách nhiệm
phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự trong việc giao tài sản cho người mua
được tài sản đấu giá. Tổ chức, cá nhân cản trở, can thiệp trái pháp luật dẫn đến
việc chậm giao tài sản bán đấu giá thành mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
5. Trường hợp sau khi phiên đấu giá kết
thúc mà người trúng đấu giá tài sản từ chối mua hoặc đã ký hợp đồng mua bán tài
sản bán đấu giá nhưng chưa thanh toán thêm bất kỳ khoản tiền nào thì sau khi trừ
chi phí đấu giá tài sản, khoản tiền đặt trước thuộc về ngân sách nhà nước và được
sử dụng để thanh toán lãi suất chậm thi hành án, tạm ứng chi phí bồi thường Nhà
nước, bảo đảm tài chính để thi hành án và các chi phí cần thiết khác.
Trường hợp người mua được tài sản bán
đấu giá không thực hiện đầy đủ hoặc không đúng hạn nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng thì tiền thanh toán mua tài sản đấu giá được xử lý theo thỏa thuận
trong hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá và quy định của pháp luật về hợp đồng
mua bán tài sản.
Cơ quan thi hành án dân sự tổ chức
bán đấu giá tài sản theo quy định của pháp luật.”
13. Khoản 1 và điểm a khoản 5 Điều 49 được sửa đổi, bổ sung như sau:
a) Khoản 1 Điều 49
được sửa đổi, bổ sung như sau:
“1. Trường hợp thanh toán tiền thi
hành án theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 47 Luật Thi hành
án dân sự thì những người được thi hành án đã yêu cầu theo các bản án, quyết
định đang do cơ quan thi hành án đó tổ chức thi hành tính đến thời điểm có quyết
định cưỡng chế hoặc có biên bản về việc tự nguyện giao tài sản được ưu tiên
thanh toán.
Trường hợp nhiều người được nhận một
tài sản cụ thể hoặc nhận chung một khoản tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 7
Nghị định này thì Chấp hành viên thực hiện thủ tục về thi hành án đối với những
người đã yêu cầu thi hành án; tổ chức giao tiền, tài sản cho những người đã yêu
cầu hoặc những người được thi hành án có mặt tại thời điểm thanh toán tiền, trả
tài sản. Quyền và lợi ích hợp pháp của những người được thi hành án khác theo bản
án, quyết định đó được giải quyết theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp
luật về dân sự.”
b) Điểm a khoản 5
được sửa đổi, bổ sung như sau:
“a) Khoản tiền, tài sản chưa xác định
được địa chỉ của người được nhận hoặc khoản tiền hết thời hạn 15 ngày, kể từ
ngày thông báo, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này mà người được thi
hành án đã yêu cầu thi hành án không đến nhận.
Sau khi gửi tiền, tài sản, nếu người
được nhận tiền, tài sản đến nhận thì cơ quan thi hành án dân sự chi trả tiền,
tài sản cho người được nhận. Phần lãi tiền gửi được cộng
vào số tiền gửi ban đầu và trả cho người được nhận.
Hết thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản
án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc 01 năm, kể từ ngày thông báo đối với
trường hợp thu được tiền sau thời điểm 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật mà người được thi hành án không đến nhận thì Thủ trưởng cơ
quan thi hành án dân sự ra quyết định sung công quỹ nhà nước và chuyển nộp số
tiền, tài sản đó vào ngân sách nhà nước.”
14. Khoản 3 Điều 50 được sửa
đổi, bổ sung như sau:
“3. Đối với việc thi hành án có yêu cầu
ủy thác tư pháp thì xử lý như sau:
a) Trong thời hạn 06 tháng, kể từ
ngày Bộ Tư pháp gửi hồ sơ ủy thác tư pháp hợp lệ mà nhận được đủ kết quả theo
yêu cầu thì cơ quan thi hành án dân sự thực hiện việc thi hành án theo quy định
của pháp luật.
Trường hợp nhận được
kết quả ủy thác tư pháp nhưng chưa đáp ứng yêu cầu thì cơ quan thi hành án dân
sự thực hiện việc ủy thác tư pháp lần thứ hai. Nếu đã ủy thác tư pháp lần thứ
hai mà kết quả không đáp ứng yêu cầu thì cơ quan thi hành án dân sự thực hiện
theo quy định tại điểm b khoản này.
b) Trường hợp hết thời hạn quy định tại
điểm a khoản này mà không có kết quả hoặc có thông báo về việc không thực hiện
được việc ủy thác tư pháp thì việc thông báo văn bản đã ủy thác và các văn bản
khác trong quá trình thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 43 Luật Thi hành án dân sự.
c) Trường hợp ủy thác tư pháp về việc
giao trả giấy tờ, tài liệu liên quan đến tài sản, nhân thân của đương sự, nếu
việc thực hiện ủy thác tư pháp không có kết quả hoặc đương sự không đến nhận thì
trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày hết thời hạn quy định tại
điểm a khoản này hoặc hết thời hạn theo thông báo thì cơ quan thi hành án làm
thủ tục gửi cho người đó; trường hợp không xác định được địa chỉ người nhận thì
gửi cho cơ quan, tổ chức đã ban hành giấy tờ, tài liệu hoặc cơ quan đại diện của
nước có cơ quan, tổ chức đã ban hành giấy tờ, tài liệu.”
15. Khoản 1, điểm e khoản 2 và khoản 4 Điều 51 được sửa đổi, bổ sung như sau:
a) Khoản 1 và khoản 4
Điều 51 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“1. Người phải thi hành án chưa thực
hiện xong nghĩa vụ thi hành án theo bản án, quyết định thì có thể bị tạm hoãn
xuất cảnh, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự
ra quyết định về tạm hoãn xuất cảnh và gửi cho cơ quan quản lý xuất nhập cảnh
khi thuộc một trong các trường hợp sau:
a) Có yêu cầu của người được thi hành
án;
b) Có căn cứ cho thấy việc xuất cảnh ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân hoặc để đảm
bảo việc thi hành án.
Việc tạm hoãn xuất cảnh, gia hạn, giải
tỏa, hủy bỏ tạm hoãn xuất cảnh được thực hiện theo quy định của pháp luật về xuất,
nhập cảnh.
Cơ quan, tổ chức đang có nghĩa vụ thi
hành bản án, quyết định thì việc tạm hoãn xuất cảnh được áp dụng đối với người
đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức đó, trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác. Trường hợp nhận được thông báo về việc thay đổi người đại diện
theo pháp luật của cơ quan, tổ chức hoặc thuộc các trường
hợp quy định tại khoản 4 Điều này thì cơ quan thi hành án dân sự gửi văn bản đến
cơ quan quản lý xuất nhập cảnh để điều chỉnh thông tin.
4. Việc giải tỏa,
hủy bỏ tạm hoãn xuất cảnh được thực hiện khi có quyết định giám đốc thẩm, tái
thẩm hủy bản án, quyết định đang thi hành, khi căn cứ tạm hoãn xuất cảnh không
còn hoặc khi thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.”
b) Điểm e khoản 2 Điều
51 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“e) Có văn bản của cơ quan Công an hoặc
cơ quan đại diện ngoại giao đề nghị cho xuất cảnh trong trường hợp cá nhân là
người phạm tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng đang bị bệnh
hiểm nghèo hoặc không có tài sản, thu nhập tại Việt Nam nhưng không được người
được thi hành án cho xuất cảnh hoặc không xác định được địa chỉ của người được
thi hành án hoặc người được thi hành án là người nước ngoài đã về nước và các
trường hợp đặc biệt khác.”
16. Khoản
3 Điều 66 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“3. Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định tiêu chuẩn chuyên
môn nghiệp vụ của Thẩm tra viên sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ Nội vụ.”
17. Khoản
2 Điều 71 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“2. Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định
tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ của Thư ký thi hành án sau
khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ Nội vụ.”
Điều 2. Bãi bỏ điểm b khoản 2 Điều
64.
Điều 3. Quy định
chuyển tiếp
Đối với việc thi hành án đã thi hành
một phần hoặc chưa thi hành xong trước khi Nghị định này có hiệu lực thi hành
nhưng đã thực hiện các thủ tục về thi hành án theo đúng quy định của Luật Thi
hành án dân sự và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành thì kết quả
thi hành án được công nhận; các thủ tục thi hành án tiếp theo được tiếp tục thực
hiện theo quy định của Nghị định này.
Điều 4. Hiệu lực
thi hành
Nghị định này có hiệu lực thi hành từ
ngày 01 tháng 5 năm 2020.
Điều 5. Trách nhiệm
thi hành
Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, các cơ quan, tổ chức và
cá nhân có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Nghị định
này./.
Nơi nhận:
- Ban Bí thư Trung ương
Đảng;
- Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ;
- Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ;
- HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
- Văn phòng Trung ương và các Ban của Đảng;
- Văn phòng Tổng Bí thư;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội;
- Văn phòng Quốc hội;
- Tòa án nhân dân tối cao;
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- Kiểm toán Nhà nước;
- Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia;
- Ngân hàng Chính sách xã hội;
- Ngân hàng Phát triển Việt Nam;
- Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
- Cơ quan trung ương của các đoàn thể;
- VPCP: BTCN, các PCN, Trợ lý TTg, TGĐ Cổng TTĐT, các Vụ, Cục, đơn vị trực
thuộc, Công báo;
- Lưu: VT, PL (2).
|
TM. CHÍNH PHỦ
THỦ TƯỚNG
Nguyễn Xuân Phúc
|