HỘI
ĐỒNG CHÍNH PHỦ
******
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*******
|
Số:
257-CP
|
Hà
Nội, ngày 10 tháng 07 năm 1979
|
NGHỊ QUYẾT
VỀ
PHÁT TRIỂN CHĂN NUÔI LỢN
I. NHẬN ĐỊNH VỀ TÌNH HÌNH CHĂN
NUÔI LỢN TRONG NHỮNG NĂM QUA
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng
lần thứ tư và Nghị quyết hội nghị Ban Chấp hành trung ương Đảng lần thứ hai về
chủ trương sớm đưa chăn nuôi lên thành ngành sản xuất chính, cân đối với trồng
trọt, trong mấy năm qua, một số địa phương đã chú trọng phát triển chăn nuôi
lợn, từ đó đã tạo điều kiện đưa năng suất và sản lượng cây trồng nhất là lương
thực hàng năm tăng lên rõ rệt.
Tuy nhiên, đàn lợn cả nước từ năm
1976 đến nay không phát triển. Tổng số lợn năm 1978 có 8,8 triệu con, so với
năm 1976 giảm 1,8%. Bình quân trên 1 hécta gieo trồng mới có 1,18 con. Trọng
lượng lợn xuất chuồng thấp, bình quân 43kg/con. Tỷ trọng đàn lợn quốc doanh và
tập thể mới chiếm 8,4%. Đàn lợn gia đình tăng chậm, bình quân thường xuyên mỗi
hộ nông dân mới nuôi được 1, 2 con lợn và còn tới 20% hộ nông dân chưa nuôi lợn.
Chăn nuôi lợn bị giảm sút đã ảnh
hưởng nhiều đến việc cung cấp thực phẩm, đồng thời giảm sút nguồn phân bón cho cây
trồng.
Nguyên nhân chủ yếu của tình
hình nói trên là:
1. Các ngành, các cấp từ trung
ương đến cơ sở chưa quán triệt yêu cầu phát triển nông nghiệp toàn diện và mối
quan hệ mật thiết giữa trồng trọt và chăn nuôi, chưa thấy rõ chăn nuôi là động
lực thúc đẩy trồng trọt phát triển, nên trong công tác chỉ đạo thường tách rời
sản xuất lương thực và chăn nuôi, không mạnh dạn đầu tư ban đầu cho chăn nuôi
để đưa chăn nuôi lên cân đối với trồng trọt.
2. Các địa phương chưa mạnh
dạn dành 15% đất để sản xuất thức ăn cho gia súc như Nghị quyết của trung ương
Đảng đã đề ra. Đến nay các hợp tác xã ở miền Bắc mới dành khoảng gần 3% đất cho
chăn nuôi. Diện tích vụ đông chưa được mở rộng. Việc quản lý nguồn thức ăn gia
súc chưa tốt, nhiều nơi còn tùy tiện dùng thóc chăn nuôi vào những việc khác
như bồi dưỡng tập quân sự, làm thủy lợi, liên hoan, v.v…
Các nguồn phụ phẩm công, nông nghiệp
có thể làm thức ăn gia súc như cám, khô dầu, xác mắm.. có khối lượng rất lớn
còn để phân tán ở nhiều ngành, quản lý thiếu chặt chẽ, chưa tập trung sử dụng
cho chăn nuôi và còn lãng phí nhiều.
3. Cơ sở vật chất và kỹ thuật
về giống lợn, chế biến thức ăn, thú y, v.v… còn thiếu và hoạt động yếu. Những
cơ sở đã có thường chưa sử dụng hết công suất thiết kế.
4. Nhiều chính sách về chăn
nuôi chưa được chấp hành nghiêm chỉnh, mặt khác có một số chính sách không còn
phù hợp với tình hình mới cũng chưa được bổ sung, sửa đổi kịp thời.
5. Bộ máy chỉ đạo và quản
lý ngành chăn nuôi lợn chưa được tổ chức thành hệ thống từ trung ương đến cơ sở,
hiệu lực chỉ đạo còn quá yếu.
II. NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN CHĂN NUÔI
LỢN TRONG NHỮNG NĂM TỚI
Trong những năm tới, Bộ Nông nghiệp
và các địa phương phải đẩy mạnh phát triển chăn nuôi lợn với tốc độ nhanh và
vững chắc nhằm đáp ứng ba yêu cầu: tăng nguồn thực phẩm, giải quyết phân bón
cho cây trồng và tăng nguồn hàng xuất khẩu, góp phần quan trọng vào thực hiện
thắng lợi các mục tiêu của kế hoạch Nhà nước.
Nói chung trong cả nước phải phấn
đấu tiến tới mỗi hécta gieo trồng bình quân phải có 3 con lợn, sản xuất 150
kilôgam thịt lợn hơi, 7 tấn phân chuồng, trên cơ sở đó đảm bảo vững chắc năng
suất lúa cả năm bình quân 5 tấn/hécta. Ở những vùng có năng suất lúa cao hơn,
những vùng chuyên canh lúa, hoa màu, cây công nghiệp, vùng mở rộng diện tích vụ
đông, v.v… có yêu cầu phân bón nhiều hơn, phải cố gắng đưa lên từ 4 đến 6 con
lợn trên hécta gieo trồng.
Để đạt được những mục tiêu nói trên,
phải phát triển mạnh mẽ đàn lợn ở cả 3 khu vực: quốc doanh, tập thể và gia đình
nông dân, chủ yếu là đẩy mạnh chăn nuôi trong khu vực tập thể và gia đình nông
dân.
Nhiệm vụ chính của những cơ sở chăn
nuôi quốc doanh và tập thể là sản xuất nhiều lợn giống tốt, đồng thời cung ứng
một cách có kế hoạch khối lượng thịt ngày càng nhiều và chiếm tỷ trọng ngày càng
lớn cho Nhà nước.
Chăn nuôi gia đình trong thời gian
tới phải tiếp tục phát triển cả về số lượng và trọng lượng lợn xuất chuồng.
Phấn đấu mỗi hộ thường xuyên nuôi 2 lợn, sản xuất trên 100 kilôgam thịt hơi/năm.
Cố gắng giảm đến mức thấp nhất số hộ chưa nuôi lợn.
Bộ Nông nghiệp phải có kế hoạch khẩn
trương mở rộng việc chăn nuôi lợn xuất khẩu, tiến hành khoanh một số vùng có
điều kiện về con giống, thức ăn và thuận tiện giao thông để tổ chức nuôi lợn thịt,
lợn sữa xuất khẩu; phải tận dụng các cơ sở sẵn có và nghiên cứu xây dựng thêm
những cơ sở công nghiệp chế biến tổng hợp các sản phẩm chăn nuôi để xuất khẩu.
III. NHỮNG CHỦ TRƯƠNG VÀ BIỆN
PHÁP LỚN
1. Tạo cơ sở thức ăn cho lợn:
a) Các tỉnh phải chỉ đạo các hợp
tác xã xây dựng kế hoạch cân đối chăn nuôi với trồng trọt, kiên quyết dành 15%
đất để trồng các loại cây làm thức ăn cho gia súc và phải chấp hành nghiêm
chỉnh những quy định về quản lý, sử dụng đất này trong Thông tư số 291-TTg ngày
19-05-1978 của Thủ tướng Chính phủ. Ngay từ vụ mùa sắp tới và đông xuân 1979 –
1980, các huyện đồng bằng và trung du dành 15% đất cho chăn nuôi, vùng vành đai
thực phẩm có thể dành tới 30 – 40%, các huyện miền núi cố gắng dành ít nhất 10%
đất cho chăn nuôi.
Các hợp tác xã sử dụng số thức ăn
trên đất phần trăm này để tổ chức chăn nuôi lợn tập trung và giao cho gia đình
xã viên nuôi lợn cho hợp tác xã (ngoài số lợn mà gia đình phải thường xuyên
nuôi theo kế hoạch) và nộp sản phẩm chăn nuôi cho hợp tác xã theo định mức quy
định.
b) Ủy ban nhân dân và ngành nông
nghiệp các tỉnh, huyện phải hướng dẫn kiểm tra việc dành đất cho chăn nuôi và sử
dụng thức ăn sản xuất ra để phát triển chăn nuôi. Hàng năm hợp tác xã có kế hoạch
phát triển chăn nuôi bao nhiêu thì dành đất sản xuất đủ thức ăn cho chăn nuôi
bấy nhiêu.
c) Để có một khối lượng thức ăn đầu
tư ban đầu cho ngành nông nghiệp và ngành ngoại thương tổ chức chăn nuôi lợn
xuất khẩu, trong hai năm 1979 và 1980, Nhà nước cho nhập một số ngô, cao lương…
đủ để làm vốn quay vòng xuất khẩu lợn và nhập khẩu thức ăn gia súc.
Ủy ban Kế hoạch Nhà nước chủ trì
cùng Bộ Nông nghiệp, Bộ Ngoại thương bàn kế hoạch cụ thể và tổ chức thực hiện chủ
trương này ngay trong năm 1979.
Ở những vùng có điều kiện, có thể
tổ chức công ty chăn nuôi xuất khẩu để đảm nhiệm việc sản xuất kinh doanh lợn
xuất khẩu.
d) Bộ Nông nghiệp và các địa phương
phải đẩy mạnh việc chế biến thức ăn gia súc theo lối công nghiệp; khẩn trương
tổ chức những nông trường chuyên trồng cây thức ăn gia súc để giải quyết đủ
nguyên liệu cho các xí nghiệp thức ăn gia súc hoạt động hết công suất.
Trong những năm trước mắt ngoài số
thức ăn cấp cho chăn nuôi quốc doanh. Ủy ban Kế hoạch Nhà nước và Bộ Lương thực
và Thực phẩm cần khoanh một số vùng màu tập trung để ngành nông nghiệp tổ chức
thu mua hoa màu làm nguyên liệu chế biến thức ăn gia súc.
Các tỉnh phải giúp các hợp tác xã
mở rộng việc chế biến thức ăn gia súc. Xây dựng những cơ sở chế biến thức ăn cho
từng cụm 5, 7 hợp tác xã do huyện chỉ đạo và hướng dẫn.
e) Thống nhất việc quản lý, bảo quản,
chế biến và phân phối thức ăn gia súc vào ngành nông nghiệp. Tất cả các ngành
có những phụ phẩm công, nông nghiệp có thể dùng làm thức ăn gia súc, đều phải
giao nộp cho ngành nông nghiệp theo chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước để chế biến thành
thức ăn hỗn hợp, phân phối cho các cơ sở chăn nuôi. Ngành hải sản phải tận thu
cá vụn và các phụ phẩm công nghiệp chế biến hải sản để chế biến thành bột cá
cho chăn nuôi, đồng thời ở những nơi ngành hải sản không có điều kiện thu mua
hết số cá vụn thì ngành nông nghiệp cần phối hợp với ngành hải sản, tổ chức thu
mua hết số cá vụn này để chế biến thành thức ăn gia súc.
Ủy ban Kế hoạch Nhà nước chủ trì
cùng với các Bộ Nông nghiệp, Bộ Lương thực và Thực phẩm, Bộ Hải sản, Bộ Nội thương,
Bộ Ngoại thương bàn kế hoạch thực hiện chủ trương nói trên. Bộ Nông nghiệp cần
tích cực chuẩn bị mọi điều kiện để có thể tiếp nhận các nguồn thức ăn của các
ngành giao cho vào đầu năm 1980.
2. Về giống lợn:
Để có đủ lợn con giống đáp ứng yêu
cầu phát triển chăn nuôi lợn với tốc độ nhanh, Bộ Nông nghiệp và các tỉnh phải
có kế hoạch tăng nhanh đàn lợn nái cả về số lượng và chất lượng. Tổ chức gây
thêm nhiều lợn nái đồng thời chọn lọc, nuôi dưỡng tốt để tăng số lứa đẻ trong
một năm, tăng số con nuôi sống trong mỗi lứa.
Địa phương nào cũng phải có kế hoạch
sản xuất lợn con giống cân đối với kế hoạch chăn nuôi, trước mắt phải tự giải
quyết đủ lợn con giống trong từng huyện, tiến tới tự giải quyết đủ trong từng
hợp tác xã và có kế hoạch cải tạo giống lợn xấu bằng cách tổ chức bình tuyển,
chọn lọc giống lợn địa phương và phát triển các giống lợn lai, giống lợn mới có
năng suất cao.
Phải gây nuôi đủ lợn đực giống tốt,
đồng thời mở rộng diện thụ tinh nhân tạo lợn sớm nâng tỷ trọng đàn lợn lai và
lợn ngoại chiếm ít nhất 40% tổng số lợn.
Bộ Nông nghiệp cần có kế hoạch củng
cố và hoàn chỉnh hệ thống trại giống lợn từ trung ương đến cơ sở. Phải đảm bảo
mọi điều kiện cần thiết, nhất là thức ăn để phát huy tác dụng của các trại giống
trong việc cải tạo dần đàn lợn giống của ta ngày càng có phẩm chất tốt và năng
suất cao.
3. Về thú y:
Trong những năm tới, phải phấn đấu
hạn chế và giảm tới mức thấp nhất sự thiệt hại về dịch bệnh. Tiêu diệt bệnh dịch
tả lợn, hạn chế bệnh dịch đóng dấu, tụ huyết trùng và các bệnh ký sinh trùng
của lợn.
Bộ Nông nghiệp phải tăng cường hệ
thống thú y từ trung ương đến cơ sở, nhanh chóng mở rộng mạng lưới thú y dân lập
ở tất cả các huyện.
4. Về chính sách:
a) Đối với chăn nuôi quốc
doanh:
Các nông trường chăn nuôi phải có
kế hoạch sản xuất thức ăn và giao nộp thịt cho Nhà nước theo chỉ tiêu kế hoạch.
Sau khi đã tận dụng hết khả năng
sản xuất thức ăn để chăn nuôi lợn, nếu xét thấy còn có điều kiện chăn nuôi được
nhiều hơn thì Nhà nước sẽ giao thêm thức ăn để nông trường sản xuất con giống hoặc
lợn thịt giao nộp cho Nhà nước theo định mức quy định.
Nếu nông trường giao nộp định mức
kế hoạch thì phần thịt vượt kế hoạch được tính theo giá khuyến khích.
b) Đối với chăn nuôi của hợp
tác xã:
Ruộng đất thực sự dành cho chăn nuôi
của hợp tác xã không tính vào diện tích phải bán lương thực cho Nhà nước, nhưng
phải làm nhiệm vụ bán thịt cho Nhà nước. Thuế Nông nghiệp trên đất dành cho
chăn nuôi được nộp bằng tiền.
Hợp tác xã phải sử dụng toàn bộ sản
phẩm trên đất phần trăm này vào mục đích chăn nuôi và bán lợn thịt cho Nhà nước
theo định mức hợp lý ổn định cho mỗi hécta đất dành cho chăn nuôi.
Nhà nước thu mua theo hợp đồng kinh
tế hai chiều 90% số lợn thịt chăn nuôi theo kế hoạch, trong đó 50% mua theo giá
chỉ đạo, 40% mua theo giá khuyến khích.
c) Đối với chăn nuôi của gia
đình nông dân:
Nhà nước thu mua theo hợp đồng kinh
tế hai chiều 50% số lợn thịt chăn nuôi theo kế hoạch với giá chỉ đạo. Đối với
phần còn lại, nông dân được sử dụng hoặc trao đổi với thị trường, nếu bán cho
Nhà nước thì được trả theo giá khuyến khích và được mua thêm một số hàng công
nghiệp.
Ổn định mức bán lợn thịt cho Nhà
nước theo kế hoạch giao cho hợp tác xã và gia đình nông dân trong từng kế hoạch
5 năm, bắt đầu từ năm 1980.
Những địa phương có cơ sở chăn nuôi
quốc doanh và tập thể phát triển mạnh mẽ, đảm bảo chỉ tiêu kế hoạch được giao
thì có thể giảm bớt số lợn thịt thu mua của gia đình nông dân.
Giá chỉ đạo vẫn như cũ, giá khuyến
khích hiện nay tính tăng 50% so với giá chỉ đạo.
d) Đối với những người nuôi lợn
nái, lợn đực giống:
Nhà nước khuyến khích nông dân phát
triển chăn nuôi lợn sinh sản.
Người nuôi lợn nái bán lợn con giống
theo kế hoạch điều hòa của địa phương thì được tính như bán lợn thịt cho Nhà
nước theo kế hoạch. Cứ mỗi kilôgam lợn con giống được tính bằng 1,2 đến 1,5 kilôgam
lợn thịt và được hợp tác xã bán hỗ trợ cho từ 1 đến 2 kilôgam thức ăn tinh,
trích ở số thức ăn ở đất phần trăm dành cho chăn nuôi. Nếu là lợn lai kinh tế
hay lợn ngoại thì được tính cao hơn một ít.
Người nuôi lợn đực giống theo kế
hoạch của địa phương được miễn bán lợn thịt cho Nhà nước và hàng năm được hợp tác
xã bán hỗ trợ cho một số thức ăn ngang với số thức ăn bình quân bán cho người
nuôi lợn nái.
Những gia đình nuôi lợn nái và lợn
đực giống nếu không có điều kiện nuôi lợn thịt thì được hợp tác xã bán cho từ 5
đến 10 kilôgam thịt mỗi năm, lấy ở số thịt mà hợp tác xã tính cho người nuôi
lợn thịt có nhận lợn con do hợp tác xã điều hòa.
IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Phát triển chăn nuôi lợn với tốc
độ nhanh trong điều kiện lương thực còn có khó khăn và làm cải biến tập quán lâu
đời về chăn nuôi lợn trong nhân dân là một việc rất khó. Ngành nông nghiệp và
Ủy Ban Nhân Dân các cấp cần có nhận thức đầy đủ, tổ chức kiểm điểm những ưu khuyết
điểm của ngành và địa phương, đề ra kế hoạch và biện pháp cụ thể, đồng thời
phải chỉ đạo tập trung, giải quyết dứt điểm những vấn đề cụ thể để nhanh chóng
đưa chăn nuôi tiến lên.
Bộ Nông nghiệp có trách nhiệm chấn
chỉnh lại công tác chỉ đạo chăn nuôi, cố gắng trong một thời gian ngắn xây dựng
tổ chức ngành chăn nuôi lợn thành một ngành có hệ thống từ trung ương đến cơ sở
và có hiệu lực chỉ đạo.
Bộ Nông nghiệp và Ủy Ban Nhân Dân
các cấp phải có kế hoạch phổ biến sâu rộng nghị quyết này xuống cơ sở, phối hợp
với các đoàn thể phát động quần chúng thi đua phát triển chăn nuôi, kịp thời tổ
chức sơ kết, tổng kết phong trào chăn nuôi lợn, phổ biến kinh nghiệm chăn nuôi
tốt, đồng thời phải động viên khen thưởng thích đáng những đơn vị và cá nhân
chăn nuôi giỏi.
Bộ Nông nghiệp cùng với các ngành
có liên quan khẩn trương ban ngành thông tư hướng dẫn cụ thể việc thi hành nghị
quyết này.
Những chủ trương và chính sách ban
hành trước đây trái với những điều quy định trong nghị quyết này đều bãi bỏ.
|
T.M.
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
KT. THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
PHÓ THỦ TƯỚNG
Võ Chí Công
|