PHỦ
THỦ TƯỚNG
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
51-TTg
|
Hà
Nội, ngày 09 tháng 05 năm 1962
|
THÔNG TƯ
VỀ VIỆC CẢI TIẾN TỔ CHỨC LỀ LỐI LÀM VIỆC Ở CẤP XÃ VÀ CHẾ ĐỘ
ĐÃI NGỘ ĐỐI VỚI CÁN BỘ XÃ
Cấp xã là cấp cơ sở trực tiếp với nhân dân, với
sản xuất. Việc củng cố cấp xã là một khâu rất quan trọng trong việc kiện toàn sự
lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ở nông thôn, trong việc chỉ đạo thực hiện kế hoạch
Nhà nước.
Trong việc củng cố cấp xã, vấn đề về đãi ngộ đối
với cán bộ xã là một vấn đề quan trọng. Chế độ đãi ngộ hiện nay đối với cán bộ
xã tuy đã giúp cho cán bộ xã giải quyết được một phần khó khăn trong sinh hoạt
để có điều kiện làm tốt các công tác ở xã, nhưng nói chung, còn có tính chất
bình quân và chưa giúp cho cán bộ xã có điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh mọi mặt
công tác ở xã.
Để cải thiện thêm một bước đời sống cho cán bộ
xã, để cán bộ xã có thêm điều kiện thuận lợi làm tốt công tác của Đảng và Nhà
nước, nay xét thấy cần sửa đổi chế độ đãi ngộ đối với cán bộ xã, dựa trên các
nguyên tắc sau đây:
- Việc sửa đổi chế độ đãi ngộ đối với cán bộ xã
phải đi đôi với việc cải tiến tổ chức và sửa đổi chế độ làm việc ở xã cùng với
việc cải tiến lề lối lãnh đạo của các cấp, nhất là cấp tỉnh và huyện đối với
xã.
- Ở cấp xã cần có một số ít cán bộ chuyên trách
các mặt công tác hoặc do Nhà nước đài thọ, để cho số cán bộ này có điều kiện
và hoàn cảnh đi sâu giải quyết tốt các mặt công tác ở xã, đồng thời để giúp cho
những cán bộ khác có thêm điều kiện tham gia sản xuất, thiết thực hoạt động ở
các hợp tác xã, các thôn xóm, kết hợp chặt chẽ công tác với sản xuất, vì hiện
nay các mặt công tác ở xã chủ yếu dựa vào các hợp tác xã để tiến hành. Làm như
vậy là vừa lợi cho sản xuất, vừa lợi cho công tác.
- Nhà nước đài thọ một số cán bộ chuyên trách về
Đảng và Chính quyền ở xã; các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp đài thọ số cán bộ
làm việc cho hợp tác xã theo sự hướng dẫn của ban công tác nông thôn trung
ương. Còn các cán bộ khác đều tham gia sản xuất trong các hợp tác xã, kết hợp
công tác với sản xuất, nên chủ yếu là dựa vào sản xuất để đảm bảo sinh hoạt cho
mình.
Căn cứ vào những nguyên tắc trên đây, thông tư
nào quy định việc sửa đổi chế độ đãi ngộ hiện nay đối với cán bộ xã và định
phương hướng cải tiến tổ chức, sửa đổi lề lối làm việc ở cấp xã như sau:
1. Về việc cải tiến tổ chức và lề lối
làm việc ở xã:
a) Ở mỗi xã tùy theo khối lượng công tác nhiều
hay ít và quy mô của hợp tác xã (toàn xã hay toàn thôn) cần bố trí từ 3 đến 5
cán bộ chuyên trách về Đảng và chính quyền có nhiệm vụ thay mặt cấp ủy và Ủy
ban hành chính xã giải quyết công việc hàng ngày, chuẩn bị các cuộc họp, liên hệ
với cấp trên, thường xuyên đi sát cán bộ, quần chúng để giúp đỡ, hướng dẫn thực
hiện các chủ trương của cấp trên ở xã và kiểm tra đôn đốc các mặt công tác, trước
hết là việc thực hiện tốt kế hoạch sản xuất ở xã.
Số lượng cụ thể cán bộ chuyên trách ở xã do Ủy
ban hành chính khu, thành phố, tỉnh định.
Các cán bộ khác như Ủy viên Ủy ban hành chính, Đảng
ủy viên, Ủy viên ban chấp hành thanh niên, phụ nữ xã, sẽ được phân công hoạt động
ở các hợp tác xã, các thôn, xóm, để có điều kiện kết hợp công tác chuyên môn của
ngành mình, giới mình với công tác của hợp tác xã, lấy kinh nghiệm thực tế đóng
góp vào công tác của toàn xã. Do đó, cần chấn chỉnh lại các tổ chức chuyên môn ở
xã cho ăn khớp với tổ chức của hợp tác xã.
b) Cơ quan lãnh đạo cấp tỉnh, huyện cần coi trọng
việc lựa chọn, bố trí cán bộ cho phù hợp với trách nhiệm và khả năng của từng
người; cần bồi dưỡng, giúp đỡ cán bộ xã đi sâu vào công tác, chú ý chuyên môn
hóa các cán bộ xã làm công tác nghiệp vụ như công an, xã đội, tài chính, y tế,…
Cấp tỉnh, huyện phải quản lý chặt chẽ việc điều động số cán bộ chuyên môn không
nên điều động lung tung làm trở ngại cho công tác và cho công việc đào tạo cán
bộ đi sâu vào nghiệp vụ.
c) Cơ quan lãnh đạo cấp tỉnh, huyện cần phối hợp
chặt chẽ các mặt công tác của tỉnh, huyện khi đưa về xã. Như vậy là để cho công
tác ở xã khỏi bị phân tán do nhiều đầu mối, nhiều kế hoạch, làm cho xã rất lúng
túng có khi làm được việc này lại mất việc khác, hay có khi không đủ thì giờ để
đọc các công văn, giấy tờ. Ủy ban hành chính xã căn cứ vào kế hoạch công tác của
cấp tỉnh hay huyện đưa xuống mà vạch ra chương trình công tác của xã để phối hợp
cho mọi hoạt động trong xã.
d) Cơ quan lãnh đạo cấp tỉnh, huyện cần quản lý
chặt chẽ các cuộc họp ở tỉnh, huyện, nhất là các cuộc họp có triệu tập cán bộ
xã; ở cấp xã, Đảng ủy và ủy ban hành chính xã cần quản lý chặt chẽ các cuộc họp
trong xã, gây một nề nếp làm việc thiết thực; còn các lớp huấn luyện cho cán bộ
xã thì nói chung không được mở vào các dịp thời vụ.
e) Các cơ quan, các ngành ở tỉnh, huyện cần hết
sức giảm bớt giấy tờ cần phái cán bộ về xã để truyền đạt chủ trương, chính sách
của cấp trên, xem xét lại các mẫu báo cáo, thống kê để bỏ bớt những thứ không cần
thiết.
2. Về chế độ đãi ngộ đối với cán bộ
xã:
a) Đối với số cán bộ chuyên
trách về Đảng và Chính quyền, (từ 3 đến 5 cán bộ trong mỗi xã), Nhà nước đài thọ
như sau:
- Bí thư Đảng ủy (hoặc Bí thư chi bộ, nơi chưa
có Đảng ủy) và Chủ tịch Ủy ban hành chính xã, mỗi tháng 23 đồng (riêng ở vùng rẻo
cao 25 đồng).
- Các cán bộ chuyên trách khác mỗi tháng 20 đồng
(riêng ở vùng rẻo cao 22 đồng).
- Các chế độ công tác phí, ăn uống khi đi họp,
đi dự các lớp huấn luyện vẫn giữ như cũ, không có gì thay đổi. Riêng về trường
hợp cán bộ xã đi học lâu ngày, mà cần cử cán bộ khác thay, các Bộ Nội vụ Tài
chính sẽ quy định chế độ trợ cấp cho thích hợp.
Các cán bộ chuyên trách nói trên đây hàng năm phải
tham gia sản xuất ít nhất là 30 ngày để không thoát ly sản xuất xa rời quần
chúng, để có kinh nghiệm lãnh đạo sản xuất và đồng thời tăng thêm thu nhập.
b) Đối với những cán bộ khác
ở xã như ủy viên, Ủy ban hành chính, Đảng ủy viên, Chi ủy viên, cán bộ phụ
trách các ngành, các giới thì các ban quản trị hợp tác xã cần xem xét công lao
của từng người, cố gắng giao việc sản xuất vào thời gian thích hợp, để đảm bảo
thu nhập cho cán bộ.
Khi số cán bộ này (kể cả số cán bộ làm việc cho
hợp tác xã) được cử đi học hoặc đi học. Nhà nước sẽ trợ cấp tiền công tác phí,
tiền ăn theo chế độ chung đối với cán bộ xã.
Trong trường hợp thật cần thiết, cán bộ nào phải
giành nhiều thời giờ làm việc chung của xã, ảnh hưởng nhiều đến thời giờ sản xuất
mà không thể bố trí công điểm vào các dịp khác được thì sẽ được Ủy ban hành
chính xã trợ cấp thù lao (lấy vào ngân sách xã), căn cứ vào quy định của Bộ Nội
vụ và Bộ Tài chính.
c) Đối với cán bộ của hợp tác xã như: Chủ nhiệm,
Phó chủ nhiệm, kế toán hợp tác xã… thì Ban Công tác nông thôn trung ương sẽ hướng
dẫn các hợp tác xã thi hành chế độ đãi ngộ thích hợp.
d) Đối với cán bộ giáo dục, y tế dân lập ở xã,
các Bộ Giáo dục, Y tế và Tài chính sẽ nghiên cứu trình Hội đồng Chính phủ ban
hành một chế độ thích hợp.
đ) Cán bộ xã khi ốm đau đều
được khám bệnh và chữa bệnh ở các bệnh viện, do Nhà nước đài thọ. Các Bộ Nội vụ,
Y tế Tài chính sẽ quy định cụ thể chế độ đi bệnh viện đối với cán bộ xã khi ốm
đau, và hướng dẫn các địa phương thi hành.
e) Các phương tiện làm việc: giấy mực, dầu đèn,
xe đạp (hoặc ngựa) cần thiết cho công tác của cán bộ xã sẽ do Ủy ban hành chính
xã quyết định (lấy vào ngân sách xã) theo sự hướng dẫn của Bộ Tài chính.
Các quy định trên đây nhằm mục đích củng cố cấp
xã, cải thiện thêm một bước đời sống cho cán bộ xã trong hoàn cảnh của ta hiện
nay, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ xã làm tốt công tác của Đảng và Nhà nước.
Bộ Nội vụ cùng các Bộ, các ngành
có liên quan có trách nhiệm hướng dẫn cụ thể các địa phương thi hành Thông tư
này.
Các Ủy ban hành chính khu, thành
phố, tỉnh phải cùng với Ủy ban hành chính huyện tổ chức thí điểm ở một số xã để
lấy kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện những điều quy định trong thông tư này ở các
xã khác.
Các Ủy ban hành chính khu, thành
phố, tỉnh sẽ ấn định cụ thể thời gian thi hành thông tư này, căn cứ vào tình
hình và điều kiện cụ thể của từng địa phương.
Những điều quy định trước đây
trái với thông tư này đều bị bãi bỏ.
|
KT. THỦ TƯỚNG
CHÍNH PHỦ
PHÓ THỦ TƯỚNG
Phạm Hùng
|