BỘ
NÔNG LÂM
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
21-NL/TCCB
|
Hà
Nội, ngày 09 tháng 06 năm 1959
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN THI HÀNH CHÍNH SÁCH LƯƠNG VÀ CHẾ ĐỘ TRANG BỊ PHÒNG
HỘ CHO CÔNG NHÂN ĐÁNH CÁ BỂ
Do yêu cầu công tác của ngành
cá, Bộ đã thành lập trạm kỹ thuật đánh cá biển tại cửa Hội (Nghệ An) ngoài việc
hướng dẫn ngư dân, đúc kết và phổ biến những kinh nghiệm sản xuất tốt của ngư
dân, trạm còn có công nhân trực tiếp đi đánh cá trên mặt biển ngoài khơi hoặc
trong lộng, công việc nặng nhọc, giờ giấc không nhất định. Để đãi ngộ tương xứng
với công sức ấy, Bộ đã ban hành thang lương 5 bậc, một số chế độ trang bị phòng
hộ và phụ cấp hao mòn tại Nghị định số 64-NĐ nhằm bồi dưỡng và bảo vệ sức lao động
cho công nhân, khuyến khích anh chị em ra sức học tập nâng cao trình độ kỹ thuật,
phát huy hơn nữa nhiệt tình lao động, đẩy mạnh sản xuất để hoàn thành nhiệm vụ.
Thông tư này nhằm hướng dẫn một
số điểm cụ thể để thi hành Nghị định nói trên.
I. TIÊU CHUẨN VÀ KHUNG BẬC SẮP XẾP
Tất cả công nhân làm nghề đánh
cá thường xuyên ngoài bể đều được sắp xếp vào thang lương 5 bậc này. Nhưng mức
độ đãi ngộ có khác nhau, tùy theo tài năng và tinh thần thái độ công tác của mỗi
người. Do đó cần phải có tiêu chuẩn nghề nghiệp cho từng bậc. Tuy nhiên trong
điều kiện tổ chức chúng ta còn mới mẻ, việc xây dựng tiêu chuẩn và vận dụng
tiêu chuẩn cần phải thận trọng. Vụ Nghề cá có trách nhiệm nghiên cứu tạm thời
quy định tiêu chuẩn hướng dẫn sắp xếp cho công nhân vào thang lương nói trên và
trong quá trình thi hành, rút kinh nghiệm bổ sung đề nghị Bộ ban hành tiêu chuẩn
chính thức.
Thang lương gồm có 5 bậc xếp cho
5 loại trình độ khác nhau; công nhân thành nghề, lái thuyền, thuyền trưởng thuyền
phó và một bậc sơ tuyển. Để giữ tương quan sắp xếp được tốt cần phải có mức khống
chế như sau:
- Mức lương trong thời gian thử
thách chỉ để xếp cho những công nhân mới tuyển vào, tuy đã biết nghề nghiệp
nhưng cần phải được thử thách qua về khả năng chuyên môn, sức chịu đựng khó
khăn gian khổ. Tinh thần và thái độ công tác. Sau thời gian từ 1 đến 3 tháng sẽ
nghiên cứu xét đủ điều kiện thì xếp lên bậc khởi điểm hoặc một bậc nào trong
thang lương tương xứng với khả năng người công nhân ấy.
Nhưng đối với cán bộ, công nhân
trong biên chế từ cơ quan, xí nghiệp khác chuyển đến công tác nghề đánh cá thì
áp dụng 2 cách:
- Nếu mức lương cũ thấp hơn mức
40đ thì được nâng lên 40đ trong thời kỳ thử thách.
- Nếu mức lương cũ cao hơn 40đ
thì được giữ theo lương cũ và sau thời gian từ 1 đến 3 tháng xét xếp theo lương
mới.
- Từ bậc 1 đến bậc 4 xếp cho
công nhân, lái và phụ lái.
- Từ bậc 4 đến 5 xếp cho thuyền
trưởng, thuyền phó. Tuy mức khống chế đặt ra như thế với tiêu chuẩn của từng bậc
nhưng vì thực tế tình hình cơ sở ta mới thành lập chưa qua nhiều sản xuất, công
nhân chưa biểu hiện rõ khả năng của mình nên hiện nay căn cứ vào tiêu chuẩn mà
sắp xếp cho thích đáng, sau thời gian công tác dài sẽ xét lại.
II. CÁC KHOẢN
PHỤ CẤP VÀ TRANG BỊ PHÒNG HỘ
a) Về trang bị phòng hộ mục đích
để bảo đảm an toàn trong khi lao động như phao cứu sinh, găng tay,v.v… Do đó
trong việc sử dụng cần phải có ý thức bảo quản chu đáo, tránh việc sử dụng bừa
bãi hư hại tài sản Nhà nước. Vụ nghề cá sẽ quy định nội quy sử dụng cho thích hợp.
b) Về phụ cấp mỗi ngày làm việc
ngoài biển được phụ cấp 1 đồng. Trường hợp vì điều kiện công tác có thể làm việc
ngày chủ nhật và ngày lễ, cơ quan cần bố trí cho anh em nghỉ bù sau mỗi chuyến
đi.
Nhưng nếu không nghỉ bù được thì
anh em được trả lương thêm ngày chủ nhật và phụ cấp 1 đồng. Hàng ngày phải đi sớm
về muộn, không được tính làm thêm giờ vì trong tiền lương và phụ cấp đã có chiếu
cố đến tình hình thực tế ấy rồi.
Để đảm bảo số tiền bồi dưỡng
đúng với tính chất của nó, cơ quan, công đoàn cần phải quản lý mua sắm những thức
ăn thực tế bồi dưỡng được sức lao động của anh em như đường, trái cây, thịt,
v.v… Tránh hiện tượng của một số công nhân dùng tiền bồi dưỡng để mua sắm áo quần,
xe đạp… như thế sẽ có hại cho sức khỏe ảnh hưởng đến việc sản xuất.
Đối với cán bộ nhân viên các cơ
quan thuộc Bộ, Ty Nông lâm đi công tác hướng dẫn, chỉ đạo, nghiên cứu sản xuất
nghề biển, nếu trực tiếp tham gia lao động với công nhân trên thuyền buồm lắp
máy, hay thuyền buồm kể cả thuyền của ngư dân hợp tác xã đều được phụ cấp mỗi
ngày làm việc ngoài biển 1đ.
Cán bộ công nhân viên ấy phải lấy
chữ ký chứng nhận của cơ quan, đoàn thể địa phương mình đi công tác, nói rõ lý
do, thời gian, làm việc gì mới được thanh toán. Đi từ 4 giờ trở lên được tính 1
ngày, từ 4 giờ trở xuống tính 1/2 giây.
III. CÁCH TRẢ
LƯƠNG VÀ HIỆU LỰC THI HÀNH
Chế độ lương và phụ cấp được thi
hành kể từ ngày 01/4/1959 cho thuyền buồm và từ 01/5/1959 cho công nhân thuyền
buồm lắp máy. Công nhân sẽ được truy lĩnh khoản tiền lương chênh lệch sau khi sắp
xếp, khoản tiền phụ cấp 1 đồng một ngày trong những ngày thực sự đi đánh cá
ngoài biển.
Cách trả lương trên đây là áp dụng
theo chế độ lương tháng.
Nhưng đối với các cơ quan sản xuất
cần thi hành chế độ lương ngày theo tinh thần Nghị định số 182-TTg của Thủ tướng
phủ và Thông tư số 32-LĐ/TT ngày 26/12/1958 của Bộ Lao động. Và Bộ cũng
đã ban hành Thông tư hướng dẫn số 18-NL/TT ngày 6/12/1958. Nhưng với điều kiện
và tính chất công tác của ngành đánh cá bể nó có đặc điểm riêng, Bộ sẽ nghiên cứu
và hướng dẫn thi hành sau.
Trong thời gian chờ đợi công
nhân sẽ được sắp xếp vào thang lương và tạm thời trả theo lương tháng.
Vụ nghề cá căn cứ vào thông tư
này nghiên cứu tổ chức học tập trong công nhân và tiến hành sắp xếp trong tháng
6/1959 cho xong.
Riêng đối với công nhân sửa chữa
máy sẽ xếp theo thang lương cơ khí 8 bậc.
Trong khi thi hành gặp gì khó
khăn báo cáo cho Bộ biết để kịp thời giải quyết.
|
KT.
BỘ TRƯỞNG BỘ NÔNG LÂM
THỨ TRƯỞNG
Lê Duy Trinh
|