BỘ
LAO ĐỘNG
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
15-LĐ/TT
|
Hà
Nội , ngày 01 tháng 08 năm 1959
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN THI HÀNH TIÊU CHUẨN NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG Ở CÁC NÔNG
TRƯỜNG KIẾN THIẾT CƠ BẢN
BỘ TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG
Kính gửi:
Đồng kính gửi
|
- Các Bộ,
- Các cơ quan Trung ương,
- Các Ủy ban hành chính Khu, Thành phố, tỉnh và khu vực Vĩnh linh
- Các Sở, Ty Lao động,
- Tổng liên đoàn lao động Việt Nam,
- Ủy ban Kế hoạch Nhà nước
|
Trong phong trào thi đua hoàn
thành kế hoạch Nhà nước và trong quá trình thực hiện chế độ lương theo sản phẩm,
năng suất lao động của công nhân trên các công trường kiến thiết cơ bản đã dần
dần được nâng lên. Những tiêu chuẩn năng suất áp dụng từ trước đến nay đã trở
nên lạc hậu, nếu nay vẫn tiếp tục thi hành thì chẳng những sẽ ảnh hưởng đến giá
thành công trình, gây lãng phí cho công quỹ mà còn tạo nên những bất hợp lý
trong quan hệ tiền lương và ảnh hưởng đến nhiệt tình thi đua của quần chúng.
Mặt khác, nhiệm vụ kiến thiết cơ
bản trong kế hoạch Nhà nước 3 năm rất to lớn. Trước mắt trong 6 tháng cuối năm
1959, nhiều công trường kiến thiết cơ bản phải tiến hành xây dựng một cách khẩn
trương để bù vào mức bị hụt trong 6 tháng đầu năm và hoàn thành kế hoạch cả năm
một cách thắng lợi.
Vì thiết bị và kỹ thuật sản xuất
luôn luôn được cải tiến, trình độ kỹ thuật và văn hóa của công nhân ngày càng
cao, khả năng sáng tạo và nhiệt tình lao động xã hội chủ nghĩa của công nhân
càng được phát huy nhiều, tổ chức lao động luôn luôn được cải tiến hợp lý hơn,
cho nên việc thay đổi kịp thời các tiêu chuẩn năng suất là rất cần thiết và là
kết quả tất yếu của việc nâng cao không ngừng năng suất lao động dưới chế độ xã
hội chủ nghĩa. Năng suất lao động không ngừng tăng lên là nhân tố chủ yếu làm
cho giá thành hạ xuống, tái sản xuất được mở rộng, đời sống quần chúng được
nâng lên.
Trước tình hình nói trên, Ủy ban
Kế hoạch Nhà nước đã phối hợp với Bộ Lao động và các Bộ quản lý công trường
nghiên cứu và ban hành 271 tiêu chuẩn năng suất lao động mới cho các công trường
kiến thiết cơ bản, tại Thông tư số 1073-CQL ngày 15-5-59 của Ủy ban Kế hoạch
Nhà nước. Qua kiểm tra và thí điểm tại một số công trường ở Hà nội, Hải-phòng,
Sơn tây, vv… thì thực tế nhiều công nhân đã đạt được những tiêu chuẩn năng suất
mới.
Việc lãnh đạo thực hiện tốt các
tiêu chuẩn năng suất lao động có một ý nghĩa rất quan trọng đối với việc đẩy mạnh
tốc độ thi công, giảm bớt giá thành công trình, tiết kiệm công quỹ, nâng cao
nhiệt tình thi đua của quần chúng, đảm bảo quan hệ thu nhập tiền lương được hợp
lý hơn.
Thông tư này nhằm hướng dẫn việc
áp dụng các tiêu chuẩn năng suất mới và cách tính đơn giá trả lương theo sản phẩm.
I. NHỮNG BIỆN PHÁP CẦN THỰC HIỆN ĐỂ ĐẠT
VÀ VƯỢT TIÊU CHUẨN NĂNG SUẤT MỚI
Việc nghiên cứu quy định những
tiêu chuẩn năng suất mới đã căn cứ vào tình hình thực tế và khả năng có thể
nâng cao năng suất của các công trường kiến thiết cơ bản, chứ không phải căn cứ
vào mức tiền tiến nhất. Trong thực tế có những công trường đã thi hành một số
tiêu chuẩn cao hơn tiêu chuẩn năng suất mới do Ủy ban Kế hoạch Nhà nước quy định.
Đối với các công trường đó, không đặt vấn đề hạ thấp tiêu chuẩn để thi hành cho
thống nhất với tiêu chuẩn năng suất mới. Cũng không nên thỏa mãn với những tiêu
chuẩn đã đạt được, mà cần cố gắng không ngừng nâng cao năng suất lao động của
công nhân.
Hiện nay, còn có nhiều công trường
chưa đạt được tiêu chuẩn năng suất mới quy định, nguyên nhân chính là việc lãnh
đạo tư tưởng, giáo dục chính sách lương theo sản phẩm chưa được coi trọng, việc
tổ chức lao động, bố trí địa điểm làm việc, cung cấp dụng cụ, nguyên vật liệu
chưa được hợp lý, việc hướng dẫn cải tiến phương pháp làm việc cho công nhân
còn xem nhẹ. Đối với những công trường nói trên nhất thiết phải tìm mọi biện
pháp để đạt và vượt tiêu chuẩn năng suất lao động do Ủy ban Kế hoạch Nhà nước
quy định. Muốn đạt được như vậy, ngoài việc tăng cường lãnh đạo tư tưởng và kiện
toàn tổ chức, các công trường cần kịp thời giải quyết các vấn đề cụ thể
có quan hệ trực tiếp đến việc nâng cao năng suất lao động của công nhân:
1. Cải tiến tổ chức lao động cho
hợp lý, sử dụng công nhân cho hợp khả năng, bố trí người cho sát với yêu cầu của
từng bộ phận, tránh chỗ thừa, chỗ thiếu.
Một trong những nguyên nhân chủ
yếu và phổ biến làm cho năng suất lao động bình quân trên các công trường thấp
là do việc bố trí sử dụng nhân công có nhiều lãng phí, tổ chức cồng kềnh. Qua
thực tế kiểm tra một vài công trường thì thấy rằng chỉ mới giải quyết riêng vấn
đề tổ chức lao động cũng đã làm cho năng suất lao động bình quân tăng lên rõ rệt.
Ví dụ: ở một công trường tại Hải phòng trong việc đổ bê-tông móng cầu, lúc đầu
bố trí một tổ 44 người, năng suất bình quân chỉ đạt 0320. Sau khi nghiên cứu bố
trí lại lao động hợp lý hơn rút xuống lần đầu còn 27 người, lần thứ 2 còn 12
người, do đó năng suất bình quân tăng lên 0370, rồi lên đến 0550 (tăng 71,5%).
Trong các tiêu chuẩn năng suất
đã có quy định trình độ cấp bậc thợ theo yêu cầu mỗi công tác.
Ví dụ: xây 1200 tường, móng dày
0,33 thì phải 1 công thợ bậc 3 4 (thang lương 7 bậc kiến thiết cơ bản). Vì vậy
muốn đảm bảo được tiêu chuẩn năng suất và chất lượng thì cần phải bố trí sử dụng
công nhân cho đúng khả năng và sát với yêu cầu sản xuất của mỗi bộ phận. Về
nguyên tắc, cũng một cấp bậc thợ, cùng làm một việc điều kiện làm việc như nhau
thì tiêu chuẩn năng suất phải như nhau.
2. Bố trí địa điểm làm việc cho
hợp lý, cung cấp nguyên vật liệu và dụng cụ cho đầy đủ, kịp thời, để bảo đảm sản
xuất được liên tục, tránh thời giờ chết vì phải chờ đợi dụng cụ, nguyên vật liệu.
3. Phổ biến kinh nghiệm, sáng kiến
và hướng dẫn cho công nhân áp dụng phương pháp sản xuất tiến bộ, hợp lý hóa các
động tác - Những tiêu chuẩn năng suất mới đã xây dựng trên phương pháp sản xuất
tiến bộ và phổ biến của nước ta chứ không phải trên cơ sở sản xuất tiền tiến của
các nước bạn (ví dụ: trong việc xây tường). Cho nên ở những công trường đã bước
đầu áp dụng những phương pháp tiên tiến của các nước bạn thì năng suất đã vượt
lên nhiều so với tiêu chuẩn năng suất mới quy định.
Hiện nay trong những công việc
phổ biến như: làm đất, đóng cọc, trát tường, v.v…mỗi nơi làm một cách khác
nhau. Bên cạnh những công trường đã áp dụng phương pháp tiến bộ và kinh nghiệm
tiên tiến trong nước, thì còn nhiều công trường hãy còn dùng phương pháp cũ, lạc
hậu theo tập quán cũ làm ảnh hưởng đến năng suất lao động.
Vì vậy giữa các công trường
trong một địa phương, trong một ngành cần tổ chức tham quan, học tập kinh nghiệm
lẫn nhau và phổ biến rộng rãi cho công nhân. Trong công tác xây dựng ở công trường,
không nên coi thường những sáng kiến nhỏ. Có những sáng kiến tuy thông thường
nhưng có tác dụng làm cho năng suất nâng cao rõ rệt. Ví dụ: Trong việc chuyển gạch
lên dáo một công trường ở Sơn tây đã thay phương pháp tung gạch lên bằng tay
qua mỗi tầng dáo năng suất tăng lên gấp đôi (trước gánh được 12 viên hết 12
phút nay chuyển sang bằng tay cũng 12 viên chỉ hết 5 phút).
Các công trường cần nghiêm chỉnh
và thống nhất thi hành bản tiêu chuẩn năng suất mới, trừ những nơi đã áp dụng
những tiêu chuẩn năng suất cao hơn thì không đặt vấn đề rút xuống. Qua thực tế
thi hành xét có những tiêu chuẩn quy định quá cao nghĩa là sau khi đã tích cực
áp dụng các biện pháp nói ở các điểm 1, 2, 3 trên đây mà vẫn không đạt được thì
các công trường và các Bộ đề nghị Ủy ban Kế hoạch Nhà nước xét điều chỉnh lại
cho thích hợp không nên tự ý quyết định điều chỉnh. Tuy nhiên công tác xây dựng
ở công trường chịu ảnh hưởng nhiều của điều kiện thiên nhiên, thời tiết.
Vì vậy trong những trường hợp cần thiết đã ảnh hưởng nhiều đến năng suất của
công nhân như: nắng quá, rét quá, v.v… thì tạm thời trong một thời gian nhất định
có thể hạ thấp ít nhiều tiêu chuẩn năng suất sau khi được cấp trên trực tiếp quản
lý đồng ý. Nếu cự ly vận chuyển xa hơn cự ly quy định trong bản tiêu chuẩn mà
không có điều kiện khắc phục thì có thể tăng thêm công phụ.
Ví dụ: tiêu chuẩn quy định xây
1m3 200 tường móng dầy 0,33 cự ly vận chuyển vật liệu trong vòng 30
thước thì phải một công thợ bậc 3 và 1c3 phụ. Nếu vì địa điểm công trường quá
chật hẹp cự ly vận chuyển phải đến 40, 50m để đảm bảo tiêu chuẩn 1m3200
thì công phụ có thể tăng thêm trên 1c3, nhưng công chính không thay đổi.
II. CÁCH TÍNH ĐƠN GIÁ TRẢ LƯƠNG THEO SẢN PHẨM
Về cách tính đơn giá thì các
công trường thi hành thống nhất theo Thông tư số 04-LĐ/TL ngày 11-02-1959 của Bộ
Lao động, nghĩa là lấy lương cấp bậc (kể cả phụ cấp khu vực nếu có) chia cho mức
năng suất.
Ví dụ: Xây móng gạch dày
0,57 tiêu chuẩn là 1m3500 một công chính bậc 3 hoặc bậc 4 (mức lương
ngày: 1đ83 và 2đ11) và một công phụ bậc 2 (mức lương: 1đ59). Nếu công trường ở
vùng có phụ cấp khu vực 12% thì đơn giá của 1m3 tường là:
(: 1m3500 = 3đ98: 1m3500
= 2đ65
Hiện nay ở một số địa phương thi
hành hai mức lương khác nhau: một mức lương cho công nhân cố định (trong biên
chế) theo thang lương chung do Bộ Lao động ban hành và một mức lương cho công
nhân thuê mướn tại chỗ do Hội đồng tiền công địa phương quy định. Nếu hai loại
công nhân nói trên, mức lương cao thấp khác nhau cùng làm một việc thì đơn giá
sẽ tính thống nhất trên cơ sở mức lương thấp. Người lương cao sẽ được hưởng khoản
chênh lệch giữa hai mức lương.
Ví dụ:
1. Một công trường ở Lào cai
(khu vực 20%) khoán đổ một khối bê-tông trong 5 ngày cho một tổ 15 người gồm: 8
người trong biên chế bậc 2 thang lương 7 bậc kiến thiết cơ bản mức lương kể cả
phụ cấp khu vực 20% là 1đ 90 và 7 công nhân thuê mướn tại chỗ hưởng mức lương
do Hội đồng tiền công địa phương quy định là: 2đ27. Đơn giá sẽ tính thống nhất
trên cơ sở mức lương thấp của 1 công nhân trong biên chế là 1đ 90. Những công
nhân thuê mướn ở địa phương được hưởng mức chênh lệch: (2đ27 – 1đ 90) X 5
ngày = 1đ85.
2. Nếu khoán cho 1 tổ thợ như
trên ở một công trường khác tại Hải dương, mức lương công nhân bậc 2 trong biên
chế là: 1đ59 (không có phụ cấp khu vực) mức lương của công nhân thuê mướn tại địa
phương là 1đ48. Những công nhân trong biên chế sẽ được hưởng chênh lệch:
(1đ59 – 1đ48) X 5 ngày = 2đ55.
Vì tiền lương giữa các địa
phương cao thấp khác nhau (nơi có phụ cấp khu vực, nơi không, nơi tiền công
cao, nơi tiền công thấp) cho nên tiêu chuẩn năng suất có thể thống nhất nhưng
đơn giá thì không thể thống nhất giữa các địa phương.
Nhưng trong một công trường thì
nếu cùng làm một loại việc cùng một cấp bậc thợ, cùng một tiêu chuẩn năng suất
thì đơn giá phải thống nhất.
Định mức năng suất và đơn giá là
hai vấn đề có liên quan mật thiết với nhau. Tiêu chuẩn năng suất được nâng lên
thì đơn giá sẽ rút xuống, do đó sẽ ảnh hưởng đến thu nhập của công nhân. So với
bản tiêu chuẩn cũ, những tiêu chuẩn mới ban hành đều có tăng lên ít nhiều. Vì vậy,
lãnh đạo phải đi sâu tích cực tạo điều kiện hướng dẫn giúp đỡ cho công nhân đạt
và vượt mức tiêu chuẩn mới. Có như vậy mới đảm bảo cho thu nhập của công
nhân khỏi tụt xuống (trừ trường hợp thu nhập trước đây quá cao) và có thể tăng
lên nữa theo nhịp độ tăng năng suất lao động.
Vì thời gian thi hành những tiêu
chuẩn năng suất mới hiện nay có tính chất khẩn trương, việc chuẩn bị ở một số
công trường chưa được chu đáo, cho nên lúc đầu có thể có trường hợp công nhân
đã cố gắng tích cực nhưng không đạt được tiêu chuẩn mới, do đó sẽ ảnh hưởng đến
thu nhập về tiền lương của công nhân.
Để cho các công trường có thời
gian chuẩn bị về tư tưởng, về tổ chức và phổ biến kinh nghiệm cho sản xuất đồng
thời để cho công nhân an toàn làm việc, trong vòng ba tháng kể từ ngày
thi hành tiêu chuẩn năng suất mới ở công trường nếu có trường hợp công nhân
không đạt tiêu chuẩn mới thì vẫn được hưởng lương căn bản (kể cả phụ cấp khu vực
nếu có).
***
Thi hành bản tiêu chuẩn năng suất
mới là một cuộc đấu tranh giữa lạc hậu và tiên tiến trên các mặt tư tưởng, tổ
chức lao động, phương pháp sản xuất, v.v… Vì vậy không thể thi hành một cách
đơn giản, gò ép, mệnh lệnh được. Phải coi trọng việc lãnh đạo tư tưởng, giáo dục
chính sách, làm cho mỗi cán bộ, mỗi công nhân hiểu rõ mục đích ý nghĩa của việc
trả lương theo sản phẩm và của việc thi hành tiêu chuẩn năng suất lao động mới.
Nội dung giáo dục chính sách đã giải thích rõ trong Thông tư số 4 ngày
11-2-1959 về chế độ lương theo sản phẩm của Bộ Lao động. Trong khi thi hành bản
tiêu chuẩn mới cần đề phòng, uốn nắn những khuynh hướng tư tưởng lệch lạc như:
tư tưởng ngại khó, bảo thủ trong một số cán bộ, tư tưởng thỏa mãn với năng suất
đã đạt, sợ quần chúng thắc mắc và không quyết tâm khắc phục khó khăn tạo điều
kiện thực hiện tốt các tiêu chuẩn mới. Trong công nhân phải tăng cường giáo dục
ý thức trách nhiệm, ý thức làm chủ, không tách rời quyền lợi cá nhân với quyền
lợi Nhà nước, chống tư tưởng chỉ nhìn lợi ích cá nhân trước mắt mà làm ẩu, làm
lấy nhiều không đảm bảo chất lượng.
Trên cơ sở lãnh đạo tư tưởng
giáo dục chính sách tốt cho công nhân, cán bộ phải thực hiện dựa vào quần
chúng để phát hiện hết những bất hợp lý về các mặt tổ chức lao động, cung cấp dụng
cụ nguyên vật liệu, phương pháp sản xuất và định mức năng suất trước đây và
cùng bàn bạc với quần chúng biện pháp giải quyết để nâng cao năng suất.
Thi hành chế độ lương theo sản
phẩm nói chung và tiêu chuẩn năng suất ở công trường nói riêng là một vấn
đề rất quan trọng và phức tạp. Vì vậy ở các công trường cũng như các ngành quản
lý công trường cần kiện toàn tổ chức lãnh đạo, có cán bộ chuyên trách về công
tác này. Phải tổ chức thực hiện tốt việc thống kê kiểm tra nghiệm thu sản phẩm.
Ở những công trường đã có thành
lập Hội đồng làm khoán thì nay cần củng cố lại tổ chức, kiện toàn lề lối làm việc
để lãnh đạo thi hành tốt tiêu chuẩn năng suất lao động mới.
Căn cứ vào thông tư này và Thông
tư số 04 ngày 11-02-1959 của Bộ Lao động, Thông tư số 1073-CQL ngày 18-5-1959 của
Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, đề nghị các Bộ, các Ủy ban hành chính sẽ quy định hướng
dẫn chi tiết thi hành trong ngành mình và địa phương mình, đồng thời có cán bộ
xuống tận các công trường kiểm tra và giúp đỡ thi hành bản tiêu chuẩn năng suất
mới được tốt. Từng thời gian một, cần tổ chức những cuộc hội nghị kiểm điểm việc
thi hành, trao đổi kinh nghiệm giữa các công trường cùng một ngành, cùng một địa
phương.
Trong quá trình thi hành nếu gặp
những khó khăn mắc mứu gì kịp thời phản ảnh cho Ủy ban Kế hoạch Nhà nước
và Bộ Lao động.
|
BỘ
TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG
Nguyễn Văn Tạo
|