BỘ GIAO THÔNG VẬN
TẢI
*******
Số:
495-LĐ
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
*******
Hà
Nội, ngày 13 tháng 04 năm 1962
|
QUYẾT
ĐỊNH
VỀ
QUY TẮC “AN TOÀN KỸ THUẬT PHÁ ĐÁ DƯỚI NƯỚC”
BỘ TRƯỞNG BỘ GIAO
THÔNG VẬN TẢI
Căn cứ vào tình hình tổ chức kỹ thuật và yêu
cầu đảm bảo an toàn lao động đối với công việc phá đá dưới nước;
Căn cứ theo đề nghị của các ông Vụ trưởng Vụ Lao động tiền lương, Viện trưởng
Viện kỹ thuật Giao thông và Cục trưởng Cục vận tải đường thủy;
QUYẾT ĐỊNH:
Điều
1.
Nay ban hành bản quy tắc “an toàn kỹ thuật phá đá dưới
nước” áp dụng cho các công trường, các đội phá đá dưới nước thuộc Bộ Giao thông
vận tải.
Điều
2.
Những quy định trước của Bộ Giao thông vận tải và các cấp
trực thuộc Bộ trái với quy tắc này đều bãi bỏ.
Điều
3.
Ông Chánh Văn Phòng Bộ, các ông Tổng Cục trưởng, Vụ
trưởng Vụ lao động Tiền lương, Vụ Giáo dục nhân sự, Cục trưởng Cục Vận tải
thủy, Viện trưởng, Giám đốc Sở giao thông vận tải, Trưởng ty giao thông vận
tải, Chủ nhiệm các Công ty Công trình và các ông Trưởng ban chỉ huy công trường
thuộc Bộ có trách nhiệm thi hành quyết định này.
|
KT. BỘ TRƯỞNG BỘ
GIAO THÔNG VẬN TẢI
THỨ TRƯỞNG
Dương Bạch Liên
|
QUY
TẮC
AN
TOÀN KỸ THUẬT PHÁ ĐÁ DƯỚI NƯỚC
Chương 1:
GIA
CÔNG VẬT LIỆU PHÁ LỖ VÀ PHÁ MÌN DÁN
TIẾT A. GIA CÔNG BAO
THUỐC
Điều
1.
Khi mở hòm thuốc hoặc hòm kíp mìn, dùng kìm nhổ đinh để
nhổ: nếu là đinh bu lông thì vặn nhẹ nhàng. Tùy theo cần thiết mà lấy thuốc ra
khỏi hòm, không lấy bừa bãi.
Điều
2.
Cần kiểm tra và phân loại kíp. Mức sai kém về điện trở
kíp từ 0,26-0,352 phân vào một loại. Khi phân xong nối hai đầu dây kíp lại với
nhau.
Điều
3.
Những điều cần chú ý và tôn trọng khi gia công thuốc
nên phân loại thuốc khác nhau để quy định khác nhau. Ngoài ra việc gia công bao
thuốc cấm ngặt không được nhồi ngay kíp mìn vào trong mà để riêng, trước lúc
cho nổ mới được tra kíp mìn vào để tránh xẩy ra tai nạn trong lúc vận chuyển và
bảo quản. Vì kíp mìn rất dễ nổ, nếu lúc nổ kèm theo cả bao thuốc thì tai nạn
rất lớn.
a) Gia công thuốc nổ
do thợ phá mìn làm. Những người không có trách nhiệm không vào phòng gia công.
b) Công nhân gia công
thuốc phải đeo khẩu trang và mang găng tay bằng cao-su, hoặc bằng ni-lông.
c) Thuốc nổ gia công
xong phải bỏ vào hòm hoặc đặt sang một nơi quy định.
d) Dây kíp cắt thành
những đoạn dài ngắn khác nhau để phần không cách điện ở 2 đầu lệch nhau và nối
lại với nhau.
đ) Khi buộc bao thuốc
nổ cần phải lấy dây thừng buộc chặt, cấm không được đụng chạm mạnh đột ngột để
tránh cọ sát mạnh vào nhau.
e) Khi dùng thuốc
nitrate d’ammonium ở dưới nước thì nên dùng một ít thuốc nhựa làm bao thuốc
khởi phá. Kíp cho vào bao thuốc nhựa.
g) Nếu kíp thông điện
không được tốt, điện trở quá lớn hoặc dây kíp bị rỉ nhiều thì không nên cắm vào
bao thuốc khởi phá để tránh mìn tịt.
Điều
4.
a) Cấm ngặt không được để thuốc kíp thừa trong phòng gia công.
Nếu thừa phải trả lại kho ngay hôm đó.
b) Tất cả nhân viên
công tác gia công khi làm việc ở phòng gia công không được mang theo diêm, bật
lửa và những vật liệu dễ cháy.
c) Cấm ngặt không
được tra sẵn kíp mìn vào bao thuốc nổ, trong lúc gia công và lúc vận chuyển.
d) Cấm ngặt không
được mang kíp mìn vào phòng gia công thuốc nổ.
TIẾT B. VẬN CHUYỂN
BAO THUỐC GIA CÔNG
Điều
5.
Vận chuyển những bao thuốc đã gia công xong cần nhẹ
nhàng, không được va chạm mạnh, rơi vãi và cọ sát mạnh vào nhau.
Điều
6.
Bao thuốc chưa gói kỹ hoặc chưa buộc cẩn thận không đưa
ra công trường để dùng.
Điều
7.
Khi vận chuyển thuốc cấm hút thuốc, không được tùy tiện
đặt bao thuốc giữa đường, không được chuyển qua người khác không có trách
nhiệm.
Điều
8.
Khi chuyển thuốc phải chọn con đường ít người đi trên
đường không được chơi đùa hoặc nói chuyện và không được đến gần những chỗ có
lửa.
Điều
9.
Khi đi thuyền, lên xuống cho vững vàng, không chèn nhau,
phải bắc ván cầu chắc chắn rồi mới lên xuống.
Điều
10.
Vận chuyển bao thuốc gia công bằng thuyền cần chú ý
những điểm sau.
a) Phải xếp bao thuốc
ở khoang ván bằng phẳng hoặc trong những thùng làm sẵn.
b) Khi thuyền đi cần
đề phòng thuyền va chạm vào đá ngầm.
TIẾT C. BUỘC ĐÁ VÀO
BAO THUỐC PHÁ DÁN
Điều
11.
Khi lấy bao phải nhẹ nhàng.
Điều
12.
Thừng buộc đá vào bao thuốc, phải loại chất lượng tốt.
TIẾT D. ĐƯỜNG DÂY DẪN
Điều
13.
Khi hai dây nối với nhau phải dùng dao cạo nhẹ tầng rỉ ở
chỗ dây đồng hoặc thép lõi ra ngoài để việc dẫn điện được tốt.
Điều
14.
Đầu nối các đoạn dây cần dùng kìm bằng không răng vặn
chặt cẩn thận.
Điều
15.
Những đầu dây nối phải xen kẽ nhau và phải dùng vải nhựa
bọc lại cẩn thận.
Điều
16.
Đầu dây chính của nguồn điện khi không dùng để thông
điện phải vặn chập vào nhau để đoạn mạch.
Điều
17.
Để tránh tình trạng quả nổ trước quả nổ sau khi đặt
đường giây dẫn không nên dùng dây dẫn số hiệu khác nhau nối lẫn lộn.
Điều
18.
Trong bất cứ trường hợp nào đường dây điện nổ đều phải là
hai dây, tuyệt đối không được dùng nước hoặc đất để làm dây về.
Điều
19.
Nếu có mìn không nổ thì phải tháo cả hai dây điện chính
ra khỏi nguồn điện để đoạn mạch và dùng thuyền con kiểm tra lại dây, kiểm tra
lại bình điện, các mối nối bình điện.
Điều
20.
Khi dùng đồng hồ điện để kiểm tra dây chính cấm không
được để bao thuốc gần đầu dây.
TIẾT E. PHÁ BAO THUỐC
PHÁ DÁN
Điều
21.
Tất cả công nhân và cán bộ tham gia công tác phá đá dưới
nước (thủy thủ, công nhân phá đá, công nhân đo đạc…) đều phải mang phao an toàn
và mũ bằng mây đan.
Điều
22.
Những người không biết bơi lội tuyệt đối không làm công
tác phá đá dưới nước.
Điều
23.
Công nhân hoặc cán bộ đo đạc phải đứng trong khoang hoặc
trên boong để đo. Thủy thủ lái thuyền phải tập trung tư tưởng nhất là lúc bỏ
mìn xuống nước phải hết sức cận thận để bỏ mìn đúng vị trí đã định.
Điều
24.
Khi tiến hành công tác bắn mìn cần có người canh gác có
các tín hiệu ở thượng hạ lưu. Nếu có thuyền đi qua cấm không được cho thuốc
xuống nước và thuyền công tác nhất là thuyền bỏ thuốc phải tránh ra chờ thuyền
bè đi qua rồi mới tiếp tục công tác.
Điều
25.
Khi bỏ mìn xong phải kiểm tra lại xem có đúng vị trí
không. Nếu chưa đúng nhất thiết phải bỏ lại (khi nhắc bao thuốc lên bỏ lại vị
trí cần nhắc lên từ từ tránh va chạm vào thuyền).
Điều
26.
Đối với những chỗ có hang hốc lớn, cấm ngặt không được
lặn chui người vào để đặt mìn tránh tình trạng nước ép người vào trong hang
không ra được.
Điều
27.
Khi dùng phương pháp bỏ thuốc bằng sào tre cần chú ý lúc
bao thuốc tới gần đá ngầm không được va chạm mạnh vào đá gây chấn động nguy
hiểm.
Điều
28.
Thuyền công tác nên dùng loại thuyền lái bằng chèo, nếu
dùng thuyền có bánh lái thì sau khi bỏ thuốc xong cần kiểm tra lại xem mìn có
vướng vào bánh lái không.
Điều
29.
Nguồn điện phá đá phải để trong hòm khóa lại, chìa khóa
có người bảo quản cẩn thận.
Điều
30.
Khi chưa có lệnh chuẩn bị bắn mìn thì tuyệt đối không
được bắt dây dẫn điện vào nguồn điện và nguồn điện phải khóa lại.
Điều
31.
Các tín hiệu dùng để phá đá phải thống nhất và quy định
rõ ràng.
Điều
32.
Khi tín hiệu chưa thống nhất hoặc chưa thuộc thì không
được nổ mìn.
Điều
33.
Gặp những trường hợp sau đây không được nổ mìn:
a) Khi mưa bão.
b) Công nhân và
thuyền công tác chưa rời khỏi khu vực nguy hiểm.
c) Có người bơi hoặc
công tác gần chỗ mìn nổ dưới nước.
d) Nếu phát hiện
thuyền định vị dứt neo, neo bò hoặc dứt dây ngang có thuyền bè qua lại gần khu
vực bắn mìn.
đ) Nếu trời có sương
mù hoặc tầm nhìn không rõ ràng.
CHƯƠNG 2:
GIỮ
THUYỀN ĐỨNG YÊN VÀ NÂNG DÂY KHI PHÁ DÁN
TIẾT G. TÍN HIỆU LIÊN
HỆ VÀ CẤM THUYỀN BÈ QUA LẠI
Điều
34.
Trước khi thi công phải liên hệ với bộ phận vận tải
đường sông ở địa phương để quy định cấm thuyền bè qua lại và chỗ đặt tín hiệu
cấm thuyền, đặt tín hiệu phải để cho thuyền bè trông được rõ ràng. Liên hệ với
địa phương loan báo các tín hiệu cấm thuyền sâu rộng trong nhân dân.
Điều
35.
Công nhân canh gác cần chấp hành nghiêm chỉnh việc cấm
thuyền bè và nhân dân qua lại khu vực phá mìn trong giờ cấm.
TIẾT H. GIỮ THUYỀN
ĐỨNG YÊN
Điều
36.
Tất cả những dụng cụ dây cáp, dây song, dây dừa dùng để
công tác phải chỉ định người kiểm tra cẩn thận trước khi công tác.
Điều
37.
Khi nối dây phải cử người quen việc, nhanh nhẹn, tháo
vát có kinh nghiệm.
Điều
38.
Thuyền định thì phải đậu ngoài phạm vi nguy hiểm đã định
trên bến đậu.
Điều
39.
Trước khi thuyền đậu hoặc đi công tác phải dò để nắm rõ độ
sâu tránh tình trạng thuyền va vào đá.
Chương 3:
KHOAN
LỖ PHÁ ĐÁ DƯỚI NƯỚC
TIẾT I. LỰA CHỌN
THUYỀN CÔNG TÁC
Điều
40.
Chọn thuyền làm công tác phá đá chỗ ghềnh thác hiểm trở,
lưu tốc lớn phải có những điều kiện sau:
a) Đáy thuyền rộng và
bằng, thân thuyền ổn định.
b) Mớn nước cạn.
c) Kết cấu kiên cố
chịu được sức chấn động và các lực khác.
d) Có đủ kích thước
để lắp giá công tác như giá khoan lỗ.
Điều
41.
Để tránh tai nạn xẩy ra không dùng mảng nứa thay thuyền
công tác.
TIẾT K. BỎ THUỐC VÀ
NỔ MÌN
Điều
42.
Dùng cách khoan lỗ để bắn mìn dưới nước sâu nhất định
phải có vật nút, tốt nhất là dùng nút gỗ hoặc đất sét trộn lẫn cát để tránh
dòng nước cuốn dây điện lôi cả thuốc trôi đi.
Điều
43.
Khi đóng nút không được dùng vật sắt đóng, để tránh khi
dòng làm dây điện bị đứt.
Điều
44.
Phải chú ý mối nối đầu dây điện, đầu dây nối với thuốc
phải chắc chắn, nếu cần phải dùng dây cột chặt lại và lấy vải nhựa quấn lại.
Điều
45.
Trước khi nổ mìn phải chú ý dây chính và dây phụ không
nên căng quá dễ bị nước cuốn đứt.
Điều
46.
Cấm ngặt không được dùng phương pháp đốt mìn bằng ngòi
cháy chậm ở trên tay rồi mới lặn xuống đặt mìn vào đá.
Điều
47.
Những chỗ nước sâu 0m40 và đường đi lại khó khăn không
nên bắn mìn bằng dây cháy chậm.
Điều
48.
Trước khi dùng dây cháy chậm để bắn mìn nhất thiết phải
thử tốc độ cháy của dây.
Điều
49.
Đốt mìn bằng dây cháy chậm ở dưới nước cần tính toán
thời gian công tác, thời gian người và thuyền đi vào khu vực an toàn để định
chiều dài của dây cho thích hợp tránh tình trạng người và thuyền chưa vào khu
vực an toàn mà mìn đã nổ.
Điều
50.
Để bảo đảm an toàn tính mạng cho thợ bắn mìn, công nhân
và nhân dân, trong phạm vi bắn phá đá nhất thiết phải đào hầm trú ẩn.
Điều
51.
Khi ra công tác ở hiện trường cấm không được nô đùa trên
thuyền mà phải tập trung tư tưởng để công tác.
Điều
52. Thuyền công tác (kể cả thuyền thuê của nhân
dân) tuyệt đối không được mang theo trẻ em trên thuyền và những người không có
trách nhiệm.
TIẾT
L. ĐỤC LỖ VÀ GIA CÔNG KÍP LỬA
Điều
53.
Nếu hai người làm một tổ đục lỗ thì người cầm choòng với
người cầm búa phải làm thành một góc. Người giữ choòng đứng bên trái người đánh
búa. Cấm không được đứng thành một hàng dọc để đục lỗ.
Nếu ba người làm một
tổ thì phải đứng thành hình tam giác đều, ba người ba đỉnh của tam giác để
tránh búa vào nhau.
Điều
54.
Trước khi đánh búa người đánh búa phải kiểm tra lại xem
búa có chắc không. Nếu phát hiện búa bị lỏng hoặc cán búa yếu thì phải sửa chữa
lại. Người cầm choòng phải mang găng tay và đội mũ an toàn. Người đánh búa
không được mang găng tay và không được đội mũ để tránh trượt tay và trở ngại
lúc đánh búa.
Điều
55.
Khi đục lỗ người giữ choòng và người đánh búa phải tập
trung tư tưởng không cười đùa và nhìn ngang nhìn ngửa sang chỗ khác.
Điều
56. Người giữ choòng phải có găng tay giữ choòng xoay theo
đường trung tâm của lỗ không nên quay lệch trái, lệch phải để đề phòng búa đập
không đúng choòng, bị thương.
Điều
57.
Trong khi đang đục lỗ người giữ choòng muốn nghỉ để lấy
đá trong lỗ ra hoặc làm việc khác thì phải ra hiệu trước để ngừng búa rồi mới
rút choòng ra, và lúc này người đánh búa tranh thủ kiểm tra lại búa.
Điều
58.
Khi đục lỗ những hòn đá ở vị trí chật khó đứng, nhất là
đá ngầm thì phải làm giá bằng thuyền hay bằng gỗ để đục.
Điều
59.
a) Khi cặp chặt kíp với dây cháy chậm không được cặp chặt quá
để khỏi bỏng ruột thuốc của dây dẫn. Cấm không được dùng răng để cắn.
b) Sau khi cặp chặt
dây cháy chậm và kíp mìn dùng vải nhựa dán chặt mí kíp mìn và dây cháy chậm để
nước khỏi thấm vào, làm tịt kíp mìn.
Điều
60.
Bất cứ công nhân phá mìn nào tham gia châm mồi cũng phải
đội mũ an toàn, không đội mũ không được tham gia công tác.
Điều
61.
Khi đốt mồi không được dùng lửa ngọn mà phải dùng lửa
than.
Điều
62.
Chỗ nào nhận thấy không an toàn tuyệt đối không dùng kíp
lửa để bắn phá mà phải dùng điện.
CHƯƠNG 4:
XỬ
LÝ MÌN TỊT HOẠC NỔ KHÔNG HẾT
Điều
63.
Khi phát hiện có mìn tịt hoặc nổ tịt chưa hết phải lập
tức thanh trừ, việc thanh trừ phải do công nhân bắn mìn đã được chỉ định đảm
nhiệm. Những người khác không có trách nhiệm phải ra khỏi khu vực nguy hiểm.
Điều
64.
Nổ bằng thuốc nổ trên cạn nếu có mìn thì phải dùng những
phương pháp sau đây để thanh trừ:
a) Nếu do đường dây
mà sinh ra mìn tịt thì kiểm tra kỹ và sửa chữa cẩn thận thông điện rồi cho nổ
lại.
b) Mở một lỗ nữa song
song cách lỗ trước 0m60, chiều sâu như nhau rồi bỏ thuốc vào chỗ nổ.
Điều
65.
Trong quả mìn chưa nổ nếu có kíp điện thì phải làm cho
dày đoạn mạch bằng cách chập 2 đầu dây kíp lại với nhau.
Điều
66.
Khi xử lý mìn tịt tuyệt đối cấm:
a) Nhổ bao thuốc
trong lỗ mìn ra,
b) Nắm dây dẫn của
kíp mìn để kéo kíp ra.
c) Trực tiếp kéo bao
thuốc nổ hoặc bao thuốc khởi phá ra.
Điều
67.
Trong bất cứ trường hợp nào, trong lỗ có thuốc mìn hay
không để ý không được dùng que sắt xọc hoặc đục tiếp vào lỗ cũ.
Điều
68.
Nếu mìn dán bị tịt thì:
- Nếu có thể nâng lên
được thì nâng lên từ từ khỏi mặt nước rồi xử lý.
- Nếu không nâng lên
được thì dùng bao thuốc mới có trọng lượng thích đáng tiến hành nổ lại.
Điều
69.
Kiểm tra nguyên nhân không nổ của mìn dán dưới nước, nhất
thiết phải mở đầu nối giữa dây chính với dây phụ hoặc dây kíp.
Kiểm tra xem dây
chính có thông điện không, nếu dây chính không thông điện phải tìm xem chỗ hở
điện hoặc chỗ đứt trong dây chính rồi nối lại và bọc bằng vải nhựa cẩn thận,
Nếu dây chính đã thông điện thì có thể mối nối giữa dây kíp dây chính bị lỏng
hay dây kíp bị đứt hoặc bản thân kíp mìn bị thối. Phải nối lại cẩn thận hoặc
thay kíp mới.
CHƯƠNG 5:
TÍN
HIỆU CANH GÁC BẮN MÌN
Điều
70.
Công trường phải có tín hiệu canh gác thống nhất. Phải
quy định rõ thời gian nổ mìn. Ngoài thời gian quy định ra muốn nổ mìn phải được
sự đồng ý của Ban chỉ huy công trường.
Điều
71.
Tín hiệu quy định như sau:
a) Chuẩn bị trên bờ
treo cờ đỏ ở chỗ bắn mìn và các tín hiệu cấm thuyền bè ở thượng hạ lưu. Đánh
kẻng đều đều không đánh nhanh. Cử người canh gác và cấm đi lại trong khu vực nổ
mìn. Những người không có nhiệm vụ bắn mìn đều phải vào hầm trú ẩn hoặc ra khỏi
phạm vi nguy hiểm.
b) Nổ mìn: đánh kẻng
ngũ liên ba tiếng một, đánh gấp. Lúc này người phụ trách nổ mìn phải tới chỗ an
toàn và lập tức bấm điện nổ mìn.
c) Tín hiệu thôi:
đánh một hồi kẻng dài chậm, hạ cờ đỏ và tín hiệu cấm thuyền bè xuống. Cần chú ý
trước lúc phát tín hiệu thôi nổ mìn công nhân phải kiểm tra xong, bảo đảm mìn
nổ hết và không còn gì nguy hiểm nữa.
Chương 6:
CỰ
LY AN TOÀN
Điều
72.
Cự ly an toàn từ kho kíp mìn tới kho thuốc nổ nói chung
không được bé hơn 30m.
Điều
73.
Khi thuyền chở thuốc cập bờ phải cách công trình kiến
trúc trên bờ ít nhất 250m.
Điều
74.
Cự ly an toàn phá đá dưới nước theo biểu sau:
Độ sâu của nước (m)
|
Cự ly an toàn (m)
|
Chú thích
|
1m
1, - 2,
2, - 3,
3, trở lên
|
200m
120-150
70-120
70 trở lên
|
Tuỳ tình hình thực
tế để đổi biểu này. Nhưng tuyệt đối không được nhỏ hơn cự ly trong biểu quy
định
|
Điều
75.
Cự ly an toàn của tàu bè đi ngược tới khu vực nổ mìn
không được ít hơn 500m, của tàu đi xuôi không được ít hơn 1.000m.
Điều
76.
Tính cự ly đã bắn tung ra: theo công thức của Trung Quốc
sau:
P = Cự ly bắn tung
tính bằng mét.
N = Chỉ số tác dụng
bắn phá
N = + 0,5 trong đó E là số phần trăm đá
bắn tung theo yêu cầu
W = Đường đề kháng
tối thiểu tính bằng mét.
Chú ý: Để tuyệt đối an
toàn, kết quả tính được theo công thức trên phải nhân lên từ 3 đến 4 lần nữa.
So sánh giữa giá trị
số tính ra theo công thức với trị số ở biểu, nên lấy trị số nào an toàn hơn.
Thí dụ: Yêu cầu phá khối đá
theo hình vẽ, đá bắn tung 55%. Đường đề kháng tối thiểu là 2m tính cự ly an
toàn.
P= 20.n2.W
N = + 0,5 = +
0,5 = 1,5
P= 20 x 1,52
x 2 = 20 x 2,25 x 2 = 90
- Kết quả tính được
là 90, còn phải nhân lên 3-4 lần nữa.
Tức là 90 x 3 = 270m
- Đối chiếu với biểu
ta thấy giá trị số tính được lớn hơn 200m. Vậy lấy cự ly an toàn là 270m.
Chương 7:
NHỮNG
ĐIỂM CHÚ Ý CHUNG
Điều
77.
Thuyền công tác luôn luôn để sẵn một số phao dây, sào để
sẵn sàng cấp cứu khi có việc bất trắc xảy ra.
Điều
78.
Công trường và các tổ sản xuất phải cử người phụ trách về
phòng hộ lao động. Đồng chí này có trách nhiệm nhắc nhở và kiểm tra sự thực
hiện nội quy phòng hộ lao động của anh em.
Điều
79.
Công trường phải có y tá đi theo và phải chuẩn bị đầy đủ
thuốc men cấp cứu để cấp cứu kịp thời khi có việc không hay xảy đến.
Điều
80.
Phải có áo đi mưa để chống mưa rét, phải có cồn hay rượu
mạnh để anh em xoa khi lặn ở dưới nước lên về mùa rét.
Ban hành kèm theo
Quyết định số 495-LĐ ngày 13/4/1962.