BỘ
NỘI THƯƠNG
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
62-NT/TT
|
Hà
Nội, ngày 31 tháng 01 năm 1960
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN THI HÀNH ĐIỀU LỆ VỀ XÍ NGHIỆP CÔNG TƯ HỢP DOANH
Để hướng dẫn tổ chức xí nghiệp
công tư hợp doanh nhằm cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản
tư doanh, ngày 27-11-1959, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành điều lệ về công tư hợp
doanh.
Thông tư này giải thích bản điều
lệ nói trên và ấn định những chi tiết cần thiết nhằm hướng dẫn tổ chức xí nghiệp
công tư hợp doanh.
I. NGUYÊN TẮC CHUNG
Để phát tiển tốt hơn nữa sức sản
xuất của xã hội và đẩy mạnh hơn nữa giao lưu hàng hóa, cần phải cải tạo dần dần
quan hệ kinh doanh tư bản chủ nghĩa đang kìm hãm nghiêm trọng các xí nghiệp tư
bản tư doanh về công nghiệp, thương nghiệp, vận tải, văn hóa, phục vụ ăn uống,
cần phải biến các xí nghiệp ấy thành những xí nghiệp công tư hợp doanh.
Để thực hành công tư hợp doanh với
xí nghiệp tư bản tư doanh, cần quán triệt những nguyên tắc nêu trong bản điều lệ:
1. Xí nghiệp công tư hợp doanh
là một xí nghiệp trước là của tư nhân nay do Nhà nước và chủ xí nghiệp cũ chung
nhau kinh doanh. Nhưng cũng có trường hợp Nhà nước chung với tư nhân góp vốn
xây dựng xí nghiệp mới, hoặc cho phép tư nhân góp vốn vào một xí nghiệp quốc
doanh địa phương.
Xí nghiệp hợp doanh không phải
là một xí nghiệp góp vốn thông thường mà là một xí nghiệp trong đó thành phần
kinh tế xã hội chủ nghĩa hợp tác với thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa nhằm cải
tạo xí nghiệp tư bản tư doanh, cho nên thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa giữ
địa vị lãnh đạo.
2. Thực hành hợp doanh với xí
nghiệp tư bản tư doanh phải căn cứ vào yêu cầu về kinh tế của Nhà nước,
và sự tự nguyện của chủ xí nghiệp. Nhà nước căn cứ vào yêu cầu về quốc kế dân
sinh và điều kiện quản lý của mình mà cho phép những xí nghiệp tư bản tư doanh
được hợp doanh với Nhà nước. Mặt khác, Nhà nước cũng chỉ rõ cho chủ xí nghiệp
thấy lợi ích của Nhà nước và của bản thân họ và sự cần thiết phải cải tạo xí
nghiệp tư bản để khuyến khích họ tự nguyện xin hợp doanh với Nhà nước.
Nhà nước hợp doanh chủ yếu là với
xí nghiệp tư bản tư doanh, kể cả xí nghiệp vắng chủ. Ngoài ra, nếu xét cần thiết
và để tiện cho việc quản lý và điều chỉnh sắp xếp toàn ngành, Nhà nước có thể hợp
doanh với một số xí nghiệp nhỏ của tiểu chủ thuộc một số ngành quan trọng. Xí
nghiệp của người Hoa kiều cũ cũng xem như xí nghiệp của công dân Việt Nam và được
hợp doanh.
II. VỐN, CỔ PHẦN
1. Vốn: Trong việc hợp
doanh, vấn đề chủ yếu là việc góp vốn. Vốn của xí nghiệp công tư hợp doanh do
chủ xí nghiệp cùng với Nhà nước hoặc một số xí nghiệp công tư hợp doanh khác
góp lại.
Để bảo đảm điều kiện cho xí nghiệp
phát triển, chủ xí nghiệp cần góp toàn bộ số vốn kinh doanh của mình vào hợp
doanh, không được phân tán, cất giấu, hủy hoại. Nhà nước sẽ góp vốn vào khi xét
cần thiết. Xí nghiệp công tư hợp doanh có thể gọi thêm cổ phần tư nhân.
Được coi là vốn kinh doanh: tất
cả máy móc, dụng cụ, nguyên vật liệu, hàng hóa, kể cả hàng làm dở dang và phế
phẩm, đất nhà dùng vào kinh doanh, tiền các khoản, vàng bạc, kim cương, đá quý
và những tài sản khác cần thiết cho hoạt động của xí nghiệp.
2. Kiểm kê, định giá: Tài
sản đưa vào xí nghiệp, hợp doanh được kiểm kê định giá tính thành cổ phần. Việc
kiểm kê định giá phải làm theo nguyên tắc công bằng hợp lý và theo phương pháp:
chủ xí nghiệp tự báo, đồng nghiệp bình nghị, công nhân giám sát, hai bên công
và tư thương lượng và Ủy ban hành chính khu, thành hoặc tỉnh xét duyệt.
a) Kiểm kê: Việc kiểm kê
phải làm thật đầy đủ, không bỏ sót một khoản tiền vốn luân chuyển và cố định
nào. Tư liệu sinh hoạt thì không kiểm kê. Đối với tài sản có tính chất nhập nhằng
giữa tư liệu sinh hoạt và tư liệu sản xuất thì phải xét tác dụng thực tế của
tài sản thuộc bên nào là chính và xét yêu cầu của chủ xí nghiệp cũ mà giải quyết
thỏa đáng.
Tiền tích lũy, khấu hao cần được
sử dụng đúng mục đích của nó là để mua sắm và sửa chữa thiết bị, mở rộng kinh
doanh nếu chưa sử dụng thì được tính cổ phần của bên tư, trường hợp chủ xí nghiệp
đã lấy dùng vào việc gì khác thì phải hoàn lại cho xí nghiệp và tính thành cổ
phần của bên tư.
Những thiết bị phúc lợi do chủ
xí nghiệp góp vốn xây dựng thì kiểm kê tính thành cổ phần của bên tư; những thiết
bị khác và tiền mặt của quỹ phúc lợi thì chuyển thành tài sản chung của xí nghiệp
hợp doanh.
- Trường hợp chủ xí nghiệp đầu
tư vào nhiều xí nghiệp thì có thể hoặc kiểm kê toàn bộ số vốn đầu tư trong các
xí nghiệp góp lại tính thành cổ phần ở cơ sở hợp doanh chính, hoặc là tài sản ở
xí nghiệp nào thì kiểm kê hợp doanh tại xí nghiệp ấy.
- Tài sản vắng chủ cũng được kiểm
kê và tính thành cổ phần như tài sản có chủ.
- Tài sản chiếm hữu phi pháp,
thì không tính thành cổ phần bên tư.
- Tài sản của những người không
phải là tư bản đã góp vào xí nghiệp cũng được kiểm kê và tính thành cổ phần cho
họ hưởng lãi.
- Đối với cổ phần do chủ xí nghiệp
nhượng lại cho công nhân viên chức nhằm mua chuộc thì công nhân viên chức có thể
hiến lại cho xí nghiệp hợp doanh.
b) Định giá tài sản: Việc
định giá tài sản nói chung là căn cứ vào giá mua có trừ khấu hao, và căn cứ giá
trị sử dụng còn lại do hai bên công và tư thương lượng mà định.
- Đối với nhà, đất thì căn cứ
vào hiện trạng, giá mua và sự hướng dẫn về giá cả của cơ quan quản lý nhà cửa
mà định.
- Đối với nguyên vật liệu, nói
chung là căn cứ vào giá có đối chiếu giá bán buôn của Mậu dịch quốc doanh và hiện
trạng mà định. Trường hợp không có giá mua, hoặc nguyên vật liệu mất phẩm chất
thì hai bên công và tư thương lượng mà định.
- Đối với hàng hóa tồn kho thì lấy
giá mua cộng với phí tổn kinh doanh và xét phẩm chất mà định cho hợp lý. Hàng
do xí nghiệp chế tạo thì lấy giá thành mà định.
- Đối với hàng hóa làm dở dang,
đối với phế phẩm thì căn cứ giá thành và giá trị sử dụng mà định.
- Đối với hàng ế, khó bán, thì
hoặc bán đến đâu thanh toán đến đó hoặc thanh toán ngay do hai bên công và tư
thỏa thuận.
- Đối với tài sản do chủ xí nghiệp
dùng thủ đoạn không chính đáng để nâng giá, thì điều chỉnh lại cho hợp lý.
III. QUẢN LÝ KINH DOANH
1. Để đảm bảo địa vị lãnh đạo của
thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, Nhà nước phái cán bộ đến trực tiếp quản lý
xí nghiệp hợp doanh, có sự tham gia của đại biểu công nhân viên chức và đại biểu
cổ đông tư nhân hoặc chủ xí nghiệp cũ, trừ trường hợp chủ xí nghiệp cũ không đủ
điều kiện.
Tổ chức quản lý phải gọn gàng,
đơn giản, hưởng theo tổ chức quản lý của xí nghiệp quốc doanh cùng ngành.
2. Tất cả công nhân viên chức cũ
trong xí nghiệp hợp doanh, được tiếp tục làm việc và được bố trí công việc tùy
theo khả năng của mỗi người nhằm phát huy hơn nữa mọi tài năng.
Những người đã có công tác lâu
năm trong xí nghiệp cũ nay mất sức lao động, được chiếu cố thích đáng như bố
trí công tác nhẹ, cho an dưỡng, trợ cấp…
Chế độ học việc và chế độ tuyển
dụng công nhân mới trong xí nghiệp hợp doanh sẽ áp dụng như trong xí nghiệp quốc
doanh cùng ngành.
Các chế độ tiền lương và phúc lợi
của công nhân viên chức lúc đầu vận giữ nguyên như cũ, và sẽ được dần dần cải
tiến theo các chế độ áp dụng trong các xí nghiệp quốc doanh cùng ngành trên
tinh thần chú trọng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của công nhân viên
chức.
- Công nhân viên chức trong xí
nghiệp hợp doanh cần được học tập nhằm không ngừng nâng cao trình độ chính trị,
trình độ nghiệp vụ để có điều kiện thực sự tham gia quản lý xí nghiệp, phát huy
tính tích cực và khả năng sáng tạo của mình.
3. Các chủ xí nghiệp và cổ đông
sau khi hợp doanh được Nhà nước giúp đỡ, tạo điều kiện cho họ tự cải tạo, phát
huy tài năng và góp phần cống hiến vào công cuộc xây dựng đất nước. Những người
từ trước vẫn công tác trong xí nghiệp sẽ được bố trí công việc thích hợp với khả
năng. Những người được cử tham gia quản lý xí nghiệp, có chức vụ thì có quyền hạn,
giữ chức vụ phải làm tròn trách nhiệm của mình.
Đối với những người có góp
vốn vào xí nghiệp, mà từ trước vẫn ở ngoài, nay muốn xin vào xí nghiệp hợp
doanh công tác thì tùy điều kiện xí nghiệp và khả năng của họ mà giải quyết.
Sau khi được sắp xếp công tác rồi
các chủ xí nghiệp và cổ đông cần tích cực học tập, lao động tốt để cải tạo bản
thân, không được kinh doanh theo phương thức tư bản chủ nghĩa nữa.
IV. PHÂN PHỐI LÃI
1. Chính sách lãi chiếu cố nhiều
mặt nhằm có lợi cho việc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, khuyến
khích nhà tư bản bỏ thêm vốn vào hợp doanh, đảm bảo lợi ích của Nhà nước và
nhân dân, động viên được tính tích cực của công nhân, đồng thời có chiếu cố đến
sinh hoạt của nhà tư bản.
Chính sách lãi có phân biệt giữa
công nghiệp, thương nghiệp, vận tải, giữa ngành quan trọng và ngành thứ yếu, giữa
địa phương này với địa phương khác, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển
hướng từ thương nghiệp sang sản xuất và việc điều chỉnh sắp xếp các ngành nghề
theo kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân.
2. Phân phối lãi có 2 cách: định
lãi và chia lãi.
Hiện nay, căn cứ theo tình hình
chung, định lãi là chủ yếu, chỉ chia lãi trong trường hợp cá biệt và tạm thời,
sau này sẽ trở lại định lãi.
Tiền lãi hàng năm sẽ thông qua
Ngân hàng mà trả cho cổ đông tư nhân hoặc chủ xí nghiệp cũ. Tiền lãi theo hình
thức định lãi có thể trả hàng tháng hoặc 3, 6 tháng. Trường hợp chia lãi thì đến
cuối năm sau khi bản quyết toán của xí nghiệp và phương án chia lãi được Ủy ban
hành chính khu, thành, hoặc tỉnh xét duyệt rồi thì mới tiến hành trả lãi cho cổ
đông.
Tiền lãi của người vắng mặt do
Nhà nước quản lý và sẽ thanh toán khi người ấy trở về. Trường hợp có người thừa
kế hợp pháp, thì có thể trả cho người thừa kế hợp pháp, toàn bộ hoặc một phần.
Nếu trả một phần thì phần còn lại cũng do Nhà nước quản lý và thanh toán khi
người chủ trở về.
Phần lãi của Nhà nước thì Ban
Giám đốc nộp vào công quỹ.
Tiền tích lũy dùng để mua sắm
thêm thiết bị để mở rộng kinh doanh. Trường hợp có vốn thừa thì có thể góp vào
chỗ khác.
Trên đây, là một số điểm căn bản,
các Ủy ban hành chính khu, thành phố, tỉnh cần nghiên cứu kỹ mà thi hành.
Trong khi thi hành, gặp trở ngại,
khó khăn thì phải thỉnh thị Chính phủ trung ương.
|
BỘ TRƯỞNG BỘ
NỘI THƯƠNG
Đỗ Mười
|