Em đóng bảo hiểm xã hội từ tháng 6/2015 đến tháng 10/2015 thì nghi việc và xin vào 1 công ty khác tiếp tục đóng bảo hiểm từ tháng 11/2015 đến tháng 1/2016 thì nghỉ đẻ. Em xin hỏi theo luật bảo hiểm xã hội em có được hưởng chế độ thai sản không? Mức hưởng là bao nhiêu?
Xin chào báo Đời sống & Pháp luật! Tôi đang làm việc tại 1 cơ quan nhà nước từ 01/7/2012 đến nay, có đóng bảo hiểm xã hội đầy đủ nhưng chưa được vào biên chế. Hiện nay tôi đang mang thai được hơn 8 tháng và dự sanh vào 21/12/2015. Vấn đề là cơ quan chuẩn bị có đợt xét tuyển viên chức trong tháng 12/2015 này mà HĐLĐ tôi ký với cơ quan ghi rõ
Tôi dự kiến sẽ sinh con vào ngày 25/03/2016, nhưng đến ngày 15/01/2016 tôi sinh non và con tôi đã mất. Tôi tham gia bảo hiểm đã được 01 năm. Đề nghị Luật sư tư vấn, tôi có được hưởng chế độ gì không? (Thu Hiền – Quy Nhơn)
Luật gia Vũ Thị Nhung - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Chúng tôi trích dẫn một số quy định của pháp luật để chị tham khảo, như sau:
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 quy định:
Người lao động được hưởng chế độ thai sản khi thuộc một trong các trường hợp sau: “Lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ” (điểm c khoản 1
chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao động” (khoản 2 Điều 2).
“5. Người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là công dân Việt Nam trong độ tuổi lao động, không thuộc quy định tại khoản 1 Điều
Tôi năm nay đã gần 40 tuổi, không có chồng con và hiện đang làm tại một công ty tư nhân có đóng bảo hiểm xã hội đầy đủ. Tôi đang có ý định xin một đứa con nuôi vừa mới sinh ra hoặc dưới 2 tháng về nuôi. Cho tôi hỏi, trong trường hợp này tôi có được hưởng trợ cấp thai sản không?
Độc giả Kiều Hữu Hoàng Long gửi từ địa chỉ email kht3***@gmail.com hỏi: Hiện tại theo như tôi được biết thì Luật BHXH năm 2014 có hiệu lực từ ngày 01/01/2016 có quy định hưởng chế độ thai sản đối với nam nhân viên đóng BHXH khi có vợ sinh con được nghỉ hưởng bảo hiểm từ 7 đến 14 ngày. Vợ tôi sinh con vào khoảng thời gian 22/01/2016 và sinh thường
Tôi công tác tại uỷ ban phường từ t1/2011 đến nay vơis chức danh cộng tác viên (hiện tại thuộc Đội Quản lý trật tự đô thị). Năm 2012 tôi có sanh 1 bé và đã đc hưởng chế độ thai sản đầy đủ,vậy sao năm nay tôi vừa sanh thêm 1 bé mà ko đc hưởng chế độ thai sản gì hết ( bé thứ 2 tôi sanh vào ngày 18/01/2016)??? Bảo hiểm quận ko trả lời đc nói vòng
đau hay chế độ thai sản không ạ.(trường hợp này là thuộc vào chế độ ốm đau hay thai sản?) và trong thời gian nghĩ chị có phải đóng bảo hiểm không ạ? nếu chị có hưởng chế độ ốm đau hay chế độ thai sản thì phải cung cấp giấy tờ gì ạ. Em cám ơn!
Trước đây tôi công tác tại công ty thuốc lá đà nẵng. Đến năm 2008 tôi chuyển công tác sang công ty TNHH Thảo Vy. Đến đầu năm 2009 công Ty TNHH thảo vy phá sản, tôi trong thời kỳ được hưởng chế độ thai sản. Vì công ty phá sản nên tôi không thể nhận được quyết định thôi việc và mọi giấy tờ. Thời gian đó tôi có lên BHXH quận cẩm lệ xin xem xét thì
Công ty tôi có đóng ký hợp đồng lao động cho nhân viên thời hạn 01 năm từ tháng 08/2013 đến 07/2014 và có đóng bảo hiểm.Vào tháng 06/2014 nhân viên trên nghỉ sinh và được hưởng chế độ thai sản 06 tháng.Vậy sau thời gian 6 tháng người lao động muốn trở lại làm việc, nhưng vì tình hình kinh doanh của công ty không ổn định nên cty muốn chấm dứt
Bạn mang chứng từ đến BHXH huyện nơi cư trú hoặc tạm trú. Trong thời gian này mà chưa nhận thẻ BHYT thì thanh toán trực tiếp với cơ quan BHXH về BHYT. Tuy nhiên phụ thuộc vào thời gian bắt đầu hưởng bảo hiểm thất nghiệp. Thời gian này được ghi trong quyết định của Sở lao động thương binh và xã hội .
mà bệnh viện cấp tỉnh, bệnh viện quân đội cấp quân khu trở lên có kết luận là người được hưởng án treo đang bị bệnh nguy hiểm đến tính mạng, khó có phương thức chữa trị, như: Ung thư giai đoạn cuối, xơ gan cổ trướng, lao nặng độ 4 kháng thuốc, bại liệt, suy tim độ 3, suy thận độ 4 trở lên; HIV giai đoạn AIDS đang có các nhiễm trùng cơ hội không có
Bộ luật Tố tụng hình sự quy định những người đang chấp hành hình phạt tù mà không phải là phần tử nguy hiểm thì được tạm đình chỉ thi hành án phạt tù trong những trường hợp sau:
- Bị bệnh nặng được tạm đình chỉ thi hành án phạt tù cho đến khi sức khỏe được hồi phục;
- Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì được
bệnh hiểm nghèo là người mắc một trong các bệnh sau: ung thư, bại liệt, lao nặng kháng thuốc, xơ gan cổ chướng; suy tim độ III hoặc suy thận độ IV trở lên, có kết luận của Hội đồng Giám định y khoa hoặc bản sao Bệnh án của bệnh viện cấp tỉnh trở lên; nhiễm HIV đã chuyển sang giai đoạn AIDS đang có những nhiễm trùng cơ hội và có tiên lượng xấu, có
phải chấp hành xong hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại, án phí hoặc nghĩa vụ dân sự khác.
2. Người bị kết án phạt tù có thời hạn có đủ điều kiện quy định tại điểm a và điểm c khoản 1 nêu trên được Chủ tịch nước quyết định thời gian đã chấp hành hình phạt tù ngắn hơn so với thời gian quy định tại điểm b khoản 1 nêu trên khi thuộc
đang mắc bệnh hiểm nghèo là người mắc một trong các bệnh sau: ung thư, bại liệt, lao nặng kháng thuốc, xơ gan cổ chướng; suy tim độ III hoặc suy thận độ IV trở lên, có kết luận của Hội đồng Giám định y khoa hoặc bản sao Bệnh án của bệnh viện cấp tỉnh trở lên; nhiễm HIV đã chuyển sang giai đoạn AIDS đang có những nhiễm trùng cơ hội và có tiên lượng xấu
11 của Luật Đặc xá và Quyết định về đặc xá của Chủ tịch nước, Chính phủ hướng dẫn cụ thể điều kiện của người được đề nghị đặc xá.
2. Người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn đang chấp hành hình phạt tù tại trại giam, trại tạm giam được coi là đã lập công lớn, là người đang mắc bệnh hiểm nghèo hoặc ốm
lớn hoặc thành tích đặc biệt xuất sắc khác được cơ quan có thẩm quyền xác nhận;
b) Người mắc bệnh hiểm nghèo là người bị mắc một trong các bệnh sau: ung thư, bại liệt, lao nặng kháng thuốc, xơ gan cổ chướng; suy tim độ III hoặc suy thận độ IV trở lên, có kết luận của Hội đồng Giám định y khoa hoặc bản sao Bệnh án của bệnh viện cấp tỉnh trở lên
hiểm nghèo hoặc ốm đau thường xuyên, khi phạm tội là người chưa thành niên, là người trên 70 tuổi, có hoàn cảnh gia đình khó khăn…
Như vậy, nếu người bị kết án chung thân cải tạo tốt thì có thể chỉ phải thi hành án tối đa là 14 năm tù, nhưng nếu thuộc các trường hợp đặc biệt thì vẫn có thể chỉ phải thi hành án ít hơn 14 năm tù, tùy theo quyết