Nghĩa vụ nộp thuế thu nhập cá nhân khi được tặng cho quyền sử dụng đất
Về nguyên tắc, theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005, Luật Đất đai 2013, việc tặng cho quyền sử dụng đất là quan hệ được pháp luật bảo vệ. Việc tặng cho này hoàn toàn được coi là hợp pháp nếu chị và người tặng cho thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Cụ thể, việc tặng cho phải được lập thành hợp đồng (có công chứng hoặc chứng thực) và phải thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất tại Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất thuộc Phòng Tài nguyên và môi trường cấp huyện nơi có đất.
Về việc nộp thuế TNCN, theo quy định của Luật Thuế TNCN 2007 sửa đổi bổ sung năm 2012, thuế suất đối với thu nhập từ việc tặng cho bất động sản là 10% phần giá trị tài sản quà tặng vượt trên 10 triệu đồng mà chị nhận được (Điều 18 Luật Thuế TNCN).
Khoản 4 Điều 4 Luật Thuế TNCN quy định thu nhập được miễn thuế là thu nhập từ quà tặng là bất động sản giữa vợ với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị, em ruột với nhau.
Như vậy, trong trường hợp cha của đứa trẻ làm thủ tục tặng tài sản cho chị, nếu giữa chị và người tặng cho không còn quan hệ gì khác để được miễn thuế thì chị có nghĩa vụ phải nộp thuế thu nhập cá nhân là 10% phần giá trị tài sản quà tặng vượt lên trên 10 triệu đồng.
Tuy nhiên, trong trường hợp người tặng cho làm thủ tục tặng tài sản cho con của chị, điều này có nghĩa người tặng cho và người được tặng cho có quan hệ cha con, khi đó việc tặng cho này sẽ được miễn thuế TNCN. Tuy nhiên chị cần chú ý, để được pháp luật công nhận quan hệ cha con thì trong giấy khai sinh của đứa trẻ cần có tên cha là người tặng cho. Nếu trong giấy khai sinh của con chị chưa có tên cha thì chị nên làm thủ tục nhận cha - con để được miễn loại thuế này.
Thư Viện Pháp Luật