Bồi thường chi phí đào tạo khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ
Thạc sĩ, Luật sư Phạm Ngọc Minh - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Theo khoản 1 điều 37 Bộ luật Lao động (BLLĐ), NLĐ làm việc theo HĐLĐ xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ trong các trường hợp: “a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong HĐLĐ; b) Không được trả lương đầy đủ hoặc trả lương không đúng thời hạn đã thỏa thuận trong HĐLĐ; c) Bị ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động; d) Bản thân hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện HĐLĐ; đ) Được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở cơ quan dân cử hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước; e) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền; g) NLĐ bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 90 ngày liên tục đối với người làm việc theo HĐLĐ xác định thời hạn và một phần tư thời hạn hợp đồng đối với người làm việc theo HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa được hồi phục”.
Thời hạn báo trước trong trường hợp người lao động đơn phương chấm dứt HĐLĐ là “Ít nhất 30 ngày đối với HĐLĐ xác định thời hạn” (điểm b khoản 2 điều 37). Khoản 3 điều 43 BLLĐ có quy định nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật: “Phải hoàn trả chi phí đào tạo cho người SDLĐ theo quy định tại điều 62 của bộ luật này”.
Bạn làm việc theo HĐLĐ xác định thời hạn 12 tháng, do đó bạn có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ nếu không được bố trí theo đúng công việc đã thỏa thuận (căn cứ điểm a khoản 1 điều 37 BLLĐ). Tuy nhiên, bạn phải tuân thủ quy định về thời hạn báo trước (tối thiểu 30 ngày theo quy định tại điểm b khoản 2 điều 37 BLLĐ). Nếu bạn không tuân thủ đúng quy định về thời hạn báo trước, sẽ bị coi là đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái luật và phải hoàn trả chi phí đào tạo (theo khoản 3 điều 43 BLLĐ).
Báo Lao Động thủ đô, ngày 26.12.2013
Thư Viện Pháp Luật