Chỉ được hưởng trợ cấp thôi việc khi chấm dứt HĐLĐ đúng luật
Thạc sĩ, Luật sư Phạm Ngọc Minh - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Căn cứ quy định tại khoản 1 điều 37 Bộ luật Lao động năm 2012 (BLLĐ) thì người lao động làm việc theo HĐLĐ xác định thời hạn, HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ trước thời hạn trong những trường hợp sau đây: Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong HĐLĐ; không được trả lương đầy đủ hoặc trả lương không đúng thời hạn đã thỏa thuận trong HĐLĐ; bị ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động; bản thân hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện HĐLĐ; được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở cơ quan dân cử hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước; lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền; người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 90 ngày liên tục đối với người làm việc theo HĐLĐ xác định thời hạn và một phần tư thời hạn hợp đồng đối với người làm việc theo HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa được hồi phục.
Theo quy định tại khoản 2 điều 37 BLLĐ, khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ như các trường hợp nêu trên, người lao động phải báo trước cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 30 ngày nếu là HĐLĐ xác định thời hạn. Đối với lao động nữ mang thai phải nghỉ việc thì thời hạn mà phải báo trước cho người sử dụng lao động tuỳ thuộc vào thời hạn do cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền chỉ định (quy định tại điều 156 BLLĐ). Chỉ trong trường hợp đơn phương chấm dứt HĐLĐ đúng quy định, anh mới được hưởng chế độ trợ cấp thôi việc theo quy định tại điều 48 BLLĐ.
Theo Báo Lao Động thủ đô, ngày 15/05/2014
Thư Viện Pháp Luật