Quyền được làm việc khi hết thời hạn tạm hoãn HĐLĐ
Luật sư Phạm Ngọc Minh – Công ty Luật TNHH Everest trả lời:
Trước khi trả lời câu hỏi của anh (chị), chúng tôi trích dẫn một số quy định của Bộ luật lao động năm 2012 (BLLĐ) như sau:
“Các trường hợp tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động (HĐLĐ): 1. Người lao động (NLĐ) đi làm nghĩa vụ quân sự. 2. NLĐ bị tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. 3. NLĐ phải chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc. 4. Lao động nữ mang thai theo quy định tại Điều 156 của Bộ luật này. 5. Các trường hợp khác do hai bên thoả thuận.” (Điều 32)
“2. Trong trường hợp hai bên thỏa thuận được thì việc sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động được tiến hành bằng việc ký kết phụ lục hợp đồng lao động hoặc giao kết hợp đồng lao động mới.” (Điều 35)
“Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày hết thời hạn tạm hoãn HĐLĐ đối với các trường hợp quy định tại Điều 32 của Bộ luật này, NLĐ phải có mặt tại nơi làm việc và NSDLĐ phải nhận NLĐ trở lại làm việc, trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận khác.” (Điều 33)
“1. NSDLĐ có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ trong những trường hợp sau đây:…d) NLĐ không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn quy định tại Điều 33 của Bộ luật này.” (điểm d khoản 1 Điều 38)
Căn cứ các quy định pháp luật viện dẫn ở trên, NLĐ và NSDLĐ có thể thỏa thuận việc tạm hoãn thực hiện HĐLĐ bằng việc kí kết phụ lục HĐLĐ. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày hết thời hạn tạm hoãn thực hiện HĐLĐ, NLĐ phải có mặt tại nơi làm việc và NSDLĐ phải nhận người lao động trở lại làm việc. Trường hợp không có thỏa thuận về việc đến muộn so với thời hạn, mà NLĐ không trở lại làm việc đúng thời hạn quy định thì NSDLĐ có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ theo quy định của BLLĐ.
Thư Viện Pháp Luật