Người sử dụng lao động có được chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế?
Luật gia Vũ Thị Hường– Công ty Luật TNHH Everest trả lời:
Bộ luật lao động năm 2012 (BLLĐ) quy định: “Trong trường hợp vì lý do kinh tế mà nhiều người lao động (NLĐ) có nguy cơ mất việc làm, phải thôi việc, thì người sử dụng lao động (NSDLĐ) phải xây dựng và thực hiện phương án sử dụng lao động theo quy định tại Điều 46 của Bộ luật này. Trong trường hợp NSDLĐ không thể giải quyết được việc làm mà phải cho NLĐ thôi việc thì phải trả trợ cấp mất việc làm cho NLĐ theo quy định tại Điều 49 của Bộ luật này.” (khoản 2 Điều 44).
Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12.01.2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của BLLĐ, quy định: “2. Lý do kinh tế tại Khoản 2 Điều 44 của Bộ luật Lao động thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Khủng hoảng hoặc suy thoái kinh tế; b) Thực hiện chính sách của Nhà nước khi tái cơ cấu nền kinh tế hoặc thực hiện cam kết quốc tế.” (khoản 2 Điều 13).
Nghĩa vụ của NSDLĐ khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật: "Phải nhận NLĐ trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết và phải trả tiền lương, BHXH, BHYT trong những ngày NLĐ không được làm việc cộng với ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.” (khoản 1 Điều 42 BLLĐ).
Như vậy, NSDLĐ có thể chấm dứt HĐLĐ vì lý do kinh tế nếu thuộc một trong các trường hợp sau: Một là, do khủng hoảng, suy thoái kinh tế. Hai là, do thực hiện chính sách của Nhà nước khi tái cơ cấu nền kinh tế hoặc thực hiện cam kết quốc tế. Nếu không thuộc các trường hợp nêu trên, mà NSDLĐ chấm dứt HĐLĐ vì lý do khó khăn về kinh tế thì việc chấm dứt HĐLĐ là trái với các quy định của pháp luật lao động. NSDLĐ có nghĩa vụ nhận NLĐ trở lại làm việc theo HĐLĐ đã ký kết, đồng thời trả lương và các khoản bồi thường cho NLĐ theo quy định tại Điều 42 BLLĐ.
Thư Viện Pháp Luật