Tội hành nghề mê tín dị đoan
Luật gia Trần Thị Thanh Tình – Công ty TNHH Luật Everest trả lời:
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định trong Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999 như sau: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm” (khoản 1 Điều 139).
Như vậy: Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn gian dối.
Có thể thấy, gian dối là đặc trưng cơ bản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng không phải là dấu hiệu duy nhất của tội phạm. Ngoài thủ đoạn gian dối, người phạm tội còn phải có hành vi chiếm đoạt tài sản thì mới có thế cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Thủ đoạn gian dối được biểu hiện bằng hành vi cụ thể là đưa ra thông tin sai lệch (không đúng sự thật) làm chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản tin đó là sự thật và giao tài sản cho người phạm tội. Việc đưa ra thông tin giả có thể bằng nhiều cách khác nhau như bằng lời nói, bằng chữ viết, bằng hành động … và bằng nhiều hình thức khác như giả vờ vay, mượn, thuê để chiếm đoạt tài sản. Chiếm đoạt tài sản là hành vi chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản của người khác thành của mình. Đặc điểm của việc chiếm đoạt này là nó gắn liền và có mối quan hệ nhân quả với hành vi dùng thủ đoạn gian dối.
Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý. Người phạm tội lừa đảo bao giờ cũng nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản trước khi thực hiện hành vi lừa đảo. Ý thức chiếm đoạt phải có trước thủ đoạn gian dối và hành vi chiếm đoạt tài sản, thủ đoạn gian dối bao giờ cũng phải có trước khi tiến hành giao tài sản giữa người bị hại với người phạm tội. Nếu sau khi có được tài sản hợp pháp mới phát sinh thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản thì không coi là phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà tuỳ từng trường hợp cụ thể người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về những tội danh tương ứng (như tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản).
Hậu quả của hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản là thiệt hại về tài sản cho người bị hại mà cụ thể là giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ năm trăm nghìn đồng trở lên, hoặc dưới năm trăm nghìn đồng thì kèm theo các điều kiện gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản, hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản nhưng chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. Phạm tội có các tình tiết tăng nặng quy địnhtại khoản 2 thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm; đối với các tình tiết tăng nặng tại khoản ba thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm; phạm tội với các tình tiết tăng nặng tại khoản 4 thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình. Ngoài ra còn có hình phạt bổ sung khác quy định tại khoản 5.
Thư Viện Pháp Luật