Thế nào là tội hối lộ?
Luật gia Bùi Hương Lan – Công ty TNHH Luật Everest trả lời:
Khoản 1 Điều 279 Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999 quy định:
“Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới mười triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Gây hậu quả nghiêm trọng;
b) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm;
c) Đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục A Chương này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.”
Như vậy, người bị coi là phạm tội nhận hối lộ khi có hành vi thỏa thuận trước về việc đưa và nhận hối lộ (trực tiếp hoặc qua trung gian) giữa người đưa hối lộ và người có chức vụ, quyền hạn để thực hiện hoặc không thực hiện một hành vi nào đó vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ.
Chủ thể phạm tội phải là người có chức vụ, quyền hạn và đã sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình để nhận hối lộ. Chức vụ, quyền hạn có thể xem là điều kiện thuận lợi để người phạm tội thực hiện việc nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của người hối lộ. Như thế, chủ thể phạm tội ở đây là chủ thể đặc biệt, chỉ có người có chức vụ và quyền hạn nhất định mới có thể thực hiện tội phạm này.
Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp nhằm mục đích tư lợi cá nhân.
Hậu quả của hành vi nhận hối lộ không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm. Tức là dù hậu qủa chưa xảy ra thì hành vi của người phạm tội vẫn cấu thành tội phạm. Ví dụ, người có chức vụ, quyền hạn chủ động đòi hối lộ thì tội phạm hoàn thành kể từ thời điểm người phạm tội tỏ rõ thái độ của mình và người đưa hối lộ chấp nhận điều đó.
Hình thức nhận hối lộ có thể là tiền mặt, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác (vàng, đá quý, ô tô, nhà đất, …). Để cấu thành tội phạm, giá trị lợi ích vật chất dùng để hối lộ tối thiểu phải là hai triệu đồng, trường hợp dưới 2 triệu đồng thì phải có thêm một trong những điều kiện như: Gây hậu quả nghiêm trọng; đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm; đã bị kết án về một trong các tội phạm tham nhũng, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Hình phạt của tội phạm này được chia làm bốn khung. Khung cơ bản với mức phạt tù từ hai năm đến bảy năm. Khung tăng nặng một, mức phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. Khung tăng nặng ba, mức phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm. Bên cạnh đó còn có các hình phạt bổ sung như cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm, bị phạt tiền một lần đến năm lần giá trị hối lộ, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Thư Viện Pháp Luật