Loại hình doanh nghiệp phù hợp cho người bắt đầu khởi nghiệp
Luật gia Đỗ Phượng - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Luật Doanh nghiệp năm 2014 không khẳng định loại hình doanh nghiệp nào là tối ưu nhất và phù hợp nhất với mọi nhà đầu tư. Mỗi loại hình doanh nghiệp (kể cả Công ty TNHH2 và CTCP) đều có ưu – nhược điểm riêng và sẽ đem lại cho chủ đầu tư những lợi thế khác nhau phụ thuộc vào nhu cầu, năng lực của mỗi chủ đầu tư như: khả năng huy động vốn và chia sẻ rủi ro trong kinh doanh, tổ chức quản lý và chi phí hoạt động…
Cho nên, chúng tôi phân tích những điểm khác biệt của 2 loại hình công ty này để bạn tự đánh giá, lựa chọn loại hình công ty phù hợp với nhu cầu và điều kiện hiện tại của mình, cụ thể:
1.Về số lượng thành viên
Công ty TNHH2 là loại hình công ty gồm tối thiểu 2 thành viên và tối đa không quá 50 thành viên góp vốn thành lập. Cần lưu ý thành viên của công ty có thể là tổ chức hoặc cá nhân. Công ty TNHH là một loại hình doanh nghiệp vừa mang tính đối vốn, vừa mang tính đối nhân. Điều này có nghĩa là vốn góp không phải là sợi dây liên kết duy nhất giữa các thành viên công ty TNHH mà họ còn liên kết nhau bởi mối quan hệ thân quen vì thành viên công ty TNHH thường là những người đã quen biết nhau, tin tưởng lẫn nhau, cùng nhau góp vốn thành lập công ty. Vì vậy, việc quản lý, điều hành công ty không quá phức tạp. Thành viên CTCP được gọi là cổ đông. Cổ đông CTCP cũng có thể là tổ chức hoặc cá nhân tương tự như công ty TNHH. Tuy nhiên CTCP bắt buộc phải có ít nhất 3 cổ đông và không hạn chế số lượng tối đa. Điều này xuất phát từ việc CTCP là một công ty đối vốn, số lượng cổ đông càng nhiều thì mức vốn huy động càng cao, đây được xem là ưu điểm nổi trội của CTCP so với công ty TNHH. Tuy nhiên chính vì tính chất đối vốn nên quyền quyết định và giải quyết các vấn đề trong công ty đều dựa trên tỉ lệ vốn góp của mỗi cổ đông, do đó vấn đề quản lý, điều hành CTCP hết sức phức tạp đặc biệt là đối với người nắm quyền quản trị công ty
2.Về khả năng huy động, chuyển nhượng vốn
Khả năng huy động vốn của CTCP cao hơn nhiều so với công ty TNHH hữu hạn thông qua việc phát hành cổ phần ra công chúng dưới dạng chứng khoán hoặc phát hành trong nội bộ công ty. Chính vì vậy cơ cấu vốn của CTCP hết sức linh hoạt. Việc phát hành cổ phiếu ra công chúng xem là một điểm mạnh đồng thời cũng là điểm yếu của CTCP. Một mặt sẽ giúp công ty huy động được nguồn vốn lớn, mặt khác giá cổ phiếu sẽ được niêm yết trên sàn, giá cổ phiếu phần nào phản ánh được tình hình kinh doanh của công ty một cách chân thật đến công chúng.
Việc chuyển nhượng phần vốn góp của thành viên công ty TNHH cho người ngoài công ty bị hạn chế gắt gao. Phải chào bán phần vốn góp cho các thành viên trong công ty trước, nếu công ty hoặc các thành viên của công ty không mua hoặc mua không hết trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày chào bán, thì mới được chào bán ra bên ngoài. Quy định này đã hạn chế được sự thâm nhập của người ngoài vào công ty nên hoạt động của công ty TNHH cũng như các bí mật kinh doanh của công ty được bảo mật ở mức độ cao. Trong khi đó, các cổ đông CTCP được tự do chuyển nhượng cổ phần của mình, trừ trường hợp chuyển nhượng cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập cho người không phải là cổ đông sáng lập trong 3 năm đầu tiên kể từ khi được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh. Với quy định này, mặc dù các cổ đông có thể duy trì tính thanh khoản của cổ phiếu và có thể chuyển nhượng các cổ phiếu một cách thuận tiện khi họ cần tiền mặt nhưng nó lại tạo ra một rủi ro rất lớn trong hoạt động của CTCP khi mà không hạn chế được tình trạng thâm nhập của người lạ vào công ty và khó bảo toàn được thông tin kinh doanh.
3.Về phạm vi chịu trách nhiệm
Phạm vi chịu trách nhiệm được xem là yếu tố được các nhà đầu tư quan tâm hàng đầu khi lựa chọn hình thức thành lập doanh nghiệp bởi lẽ nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của họ khi hoạt động kinh doanh của công ty gặp rủi ro. Thành viên công ty TNHH2 chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp. Tương tự, cổ đông CTCP chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty cho đến hết giá trị cổ phần mà họ sở hữu.
Thư Viện Pháp Luật