Chấm dứt HĐLĐ trước thời hạn?
Hợp đồng của bạn có thời hạn hai năm, bạn đã làm việc 19 tháng, như vậy vẫn chưa đến hạn hợp đồng. Theo đó, bạn muốn nghỉ việc thì có thể thỏa thuận với công ty. Tuy nhiên, nếu bạn chỉ thông báo nghỉ việc mà không có sự thỏa thuận với công ty thì đó là đơn phương chấm dứt hợp đồng. Khi đó, việc đơn phương chấm dứt hợp đồng chỉ được xem là hợp pháp khi rơi vào các trường hợp theo quy định tại Điều 37 Bộ luật Lao động 2012. Ngoài ra, bạn phải tuân thủ thời gian báo trước ít nhất 30 ngày.
Nếu đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái quy định, theo Điều 43 Bộ luật này, bạn sẽ không được trợ cấp thôi việc và có thể phải bồi thường cho công ty nửa tháng tiền lương. Nếu vi phạm quy định về thời hạn báo trước, bạn có thể phải bồi thường cho công ty một khoản tiền tương ứng với tiền lương trong những ngày không báo trước và phải hoàn trả chi phí đào tạo cho công ty theo quy định tại Điều 62 của Bộ luật này.
Nếu đơn phương chấm dứt hợp đồng đúng quy định: Thời gian làm việc của bạn trên 12 tháng nên bạn sẽ nhận được trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 Bộ luật này. Tuy nhiên, vì công ty có tham gia bảo hiểm thất nghiệp nên thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp không được tính là thời gian nhận trợ cấp thôi việc. Công ty có nghĩa vụ thanh toán các khoản liên quan đến quyền lợi của bạn trong thời hạn từ 7-30 ngày.
Trường hợp công ty không chi trả trợ cấp thôi việc: Điều 31 Bộ luật Tố tụng Dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2011) quy định tranh chấp về trợ cấp khi chấp dứt hợp đồng lao động là tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án mà không nhất thiết phải qua hòa giải tại cơ sở. Theo đó, bạn có thể khởi kiện tại tòa án nơi công ty có trụ sở để yêu cầu tòa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Thư Viện Pháp Luật