Việc chuyển vụ án để điều tra theo thẩm quyền trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố thực hiện ra sao?
- Việc chuyển vụ án để điều tra theo thẩm quyền trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố thực hiện ra sao?
- Viện kiểm sát cấp trên gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam được quy định như thế nào?
- Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc chấp hành thời hạn phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại được quy định ra sao?
Việc chuyển vụ án để điều tra theo thẩm quyền trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố thực hiện ra sao?
Tại Điều 57 Quy chế công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố ban hành kèm theo Quyết định 111/QĐ-VKSTC năm 2020 có quy định về việc chuyển vụ án để điều tra theo thẩm quyền trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố như sau:
1. Khi có căn cứ chuyển vụ án để điều tra theo quy định tại khoản 1 Điều 169 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra đang thụ lý giải quyết vụ án có văn bản đề nghị Viện kiểm sát ra quyết định chuyển vụ án. Viện kiểm sát ra quyết định chuyển vụ án khi có văn bản đề nghị của Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát đã yêu cầu Cơ quan điều tra đề nghị nhưng Cơ quan điều tra không thực hiện.
2. Nếu chuyển vụ án ra ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc ngoài phạm vi quân khu và tương đương thì Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực có văn bản đề nghị Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu ra quyết định chuyển vụ án. Nếu vụ án do Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu đề nghị chuyển thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu ra quyết định chuyển vụ án.
3. Trình tự, thủ tục chuyển vụ án để điều tra thực hiện theo quy định tại Điều 169 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Kiểm sát viên phải theo dõi, đôn đốc Cơ quan điều tra chuyển vụ án đúng thời hạn quy định. Nếu có vi phạm về thời hạn chuyển vụ án, Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện kiến nghị yêu cầu khắc phục.
4. Hồ sơ vụ án, hồ sơ kiểm sát phải được chuyển cho Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát có thẩm quyền để thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật. Viện kiểm sát nơi ra quyết định chuyển vụ án để điều tra phải lưu quyết định chuyển vụ án.
Theo đó, khi có căn cứ chuyển vụ án để điều tra theo quy định tại khoản 1 Điều 169 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra đang thụ lý giải quyết vụ án có văn bản đề nghị Viện kiểm sát ra quyết định chuyển vụ án.
Viện kiểm sát ra quyết định chuyển vụ án khi có văn bản đề nghị của Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát đã yêu cầu Cơ quan điều tra đề nghị nhưng Cơ quan điều tra không thực hiện.
Việc chuyển vụ án để điều tra theo thẩm quyền trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố thực hiện ra sao?(Hình từ Internet)
Viện kiểm sát cấp trên gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam được quy định như thế nào?
Tại Điều 58 Quy chế công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố ban hành kèm theo Quyết định 111/QĐ-VKSTC năm 2020 có quy định về vấn đề Viện kiểm sát cấp trên gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam được quy định như sau:
1. Khi đề nghị Viện kiểm sát cấp trên gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam, lãnh đạo Viện kiểm sát cấp dưới phải có văn bản đề nghị gia hạn nêu rõ nội dung vụ án, căn cứ, lý do gia hạn, kèm theo hồ sơ vụ án gửi đến Viện kiểm sát cấp trên trước khi hết thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam ít nhất 10 ngày (thời hạn này tính từ ngày Viện kiểm sát cấp trên nhận được văn bản đề nghị gia hạn và hồ sơ vụ án); trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát cấp trên yêu cầu Viện kiểm sát cấp dưới trực tiếp báo cáo căn cứ, lý do gia hạn.
2. Trong thời hạn 05 ngày, kể từ khi nhận được văn bản đề nghị gia hạn và hồ sơ vụ án của Viện kiểm sát cấp dưới, Viện kiểm sát cấp trên phải xem xét, quyết định gia hạn hoặc không gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam; nếu không gia hạn thời hạn tạm giam phải có văn bản thông báo cho Viện kiểm sát cấp dưới và nêu rõ lý do.
Như vậy, khi đề nghị Viện kiểm sát cấp trên gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam, lãnh đạo Viện kiểm sát cấp dưới phải có văn bản đề nghị gia hạn nêu rõ nội dung vụ án, căn cứ, lý do gia hạn, kèm theo hồ sơ vụ án gửi đến Viện kiểm sát cấp trên trước khi hết thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam ít nhất 10 ngày.
Trong thời hạn 05 ngày, kể từ khi nhận được văn bản đề nghị gia hạn và hồ sơ vụ án của Viện kiểm sát cấp dưới, Viện kiểm sát cấp trên phải xem xét, quyết định gia hạn hoặc không gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam
Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc chấp hành thời hạn phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại được quy định ra sao?
Tại Điều 59 Quy chế công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố ban hành kèm theo Quyết định 111/QĐ-VKSTC năm 2020 có quy định về thực hành quyền công tố, kiểm sát việc chấp hành thời hạn phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại như sau:
- Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ việc chấp hành thời hạn phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại theo quy định tại Điều 174 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Trường hợp phát hiện vi phạm thì Kiểm sát viên yêu cầu hoặc báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện yêu cầu hoặc kiến nghị khắc phục, xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật.
- Trường hợp cần gia hạn thời hạn điều tra đối với các vụ án phục hồi điều tra do tính chất phức tạp của vụ án theo đề nghị của Cơ quan điều tra, Kiểm sát viên phải kiểm tra căn cứ, điều kiện gia hạn và báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét, quyết định theo quy định tại Điều 174 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
- Trường hợp vụ án điều tra bổ sung, điều tra lại thì thời hạn điều tra thực hiện theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 174 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Trân trọng!
Huỳnh Minh Hân