Vay tiền nhưng không trả nợ
Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Pháp luật không quy định hợp đồng vay tài sản phải được giao kết bằng một hình thức nhất định nên theo quy định tại Điều 401 Bộ luật dân sự, hợp đồng vay tài sản có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể.
Khi bạn cho người bạn vay tiền, người bạn đó có nghĩa vụ trả nợ theo quy định tại Điều 474 Bộ luật dân sự:
- Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
- Trong trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý.
- Ðịa điểm trả nợ là nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở của bên cho vay, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
- Trong trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi đối với khoản nợ chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn chậm trả tại thời điểm trả nợ, nếu có thỏa thuận.
- Trong trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi trên nợ gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ.
Với tư cách là bên vay, bạn có quyền yêu cầu người bạn của mình thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo thỏa thuận của các bên. Nếu người bạn đó cố tình không trả nợ thì bạn có quyền gửi đơn khởi kiện đến tòa án có thẩm quyền để được giải quyết theo quy định của pháp luật.
Về việc yêu cầu trả tiền lãi: Bạn có thể yêu cầu bên vay trả tiền lãi nếu thuộc trường hợp quy định tại Điều 474 Bộ luật dân sự nêu trên; hoặc thực hiện theo quy định tại Điều 476 Bộ luật dân sự như sau:
- Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng.
- Trong trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ.
Thư Viện Pháp Luật