Có được giám đốc thẩm không qua phúc thẩm bản án sơ thẩm bị kháng cáo không?
Có được giám đốc thẩm không qua phúc thẩm bản án sơ thẩm bị kháng cáo hay không?
Căn cứ khoản 1 Điều 27 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định:
Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm
1. Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm.
Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của Bộ luật này. Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do Bộ luật này quy định thì có hiệu lực pháp luật.
Bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
2. Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có tình tiết mới theo quy định của Bộ luật này thì được xem xét lại theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Như vậy, trường hợp đã kháng cáo sơ thẩm hợp lệ thì bắt buộc phải xét xử phúc thẩm, không được bỏ qua giai đoạn này để lên giám đốc thẩm.
Có được giám đốc thẩm không qua phúc thẩm bản án sơ thẩm bị kháng cáo không? (Hình từ Internet)
Vụ án hình sự có người dưới 18 tuổi thì giáo viên có thể là thành viên Hội đồng xét xử sơ thẩm?
Theo khoản 1 Ðiều 423 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về việc xét xử vụ án hình sự có người dưới 18 tuổi như sau:
Xét xử
1. Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án phải có một Hội thẩm là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên hoặc người có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý người dưới 18 tuổi.
2. Trường hợp đặc biệt cần bảo vệ bị cáo, bị hại là người dưới 18 tuổi thì Tòa án có thể quyết định xét xử kín.
3. Phiên tòa xét xử bị cáo là người dưới 18 tuổi phải có mặt người đại diện của bị cáo, đại diện của nhà trường, tổ chức nơi bị cáo học tập, sinh hoạt, trừ trường hợp những người này vắng mặt mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan.
4. Việc xét hỏi, tranh luận với bị cáo, bị hại, người làm chứng là người dưới 18 tuổi tại phiên tòa được tiến hành phù hợp với lứa tuổi, mức độ phát triển của họ. Phòng xử án được bố trí thân thiện, phù hợp với người dưới 18 tuổi.
5. Đối với vụ án có bị hại, người làm chứng là người dưới 18 tuổi, Hội đồng xét xử phải hạn chế việc tiếp xúc giữa bị hại, người làm chứng với bị cáo khi bị hại, người làm chứng trình bày lời khai tại phiên tòa. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có thể yêu cầu người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp hỏi bị hại, người làm chứng.
6. Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải quyết định hình phạt đối với bị cáo thì Hội đồng xét xử áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.
7. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định chi tiết việc xét xử vụ án có người dưới 18 tuổi của Tòa gia đình và người chưa thành niên.
Như vậy, giáo viên có thể là thành viên Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có người dưới 18 tuổi với tư cách Hội thẩm nhân dân.
Có phải thi hành án khi đang kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm không?
Tại Điều 343 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, có quy định:
Hiệu lực của bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án không có kháng cáo, kháng nghị
Bản án, quyết định và những phần của bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Như vậy, theo quy định trên thì bản án sơ thẩm hình sự không có hiệu lực ngay khi tuyên án mà phải hết thời gian không kháng cáo, kháng nghị bản án sơ thẩm mới có hiệu lực.
Và tại Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 có quy định về thời hạn kháng cáo như sau:
Thời hạn kháng cáo
1. Thời hạn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm là 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
2. Thời hạn kháng cáo đối với quyết định sơ thẩm là 07 ngày kể từ ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết định.
...
Và tại Điều 364 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, cụ thể như sau:
Thẩm quyền và thủ tục ra quyết định thi hành án
1. Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm có thẩm quyền ra quyết định thi hành án hoặc ủy thác cho Chánh án Tòa án khác cùng cấp ra quyết định thi hành án.
2. Thời hạn ra quyết định thi hành án là 07 ngày kể từ ngày bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày nhận được bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm, quyết định tái thẩm.
Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được quyết định ủy thác thi hành của Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm thì Chánh án Tòa án được ủy thác phải ra quyết định thi hành án.
...
Như vậy, theo quy định trên thì bản án hình sự sơ thẩm chỉ được thi hành trong thời hạn 07 ngày bản án đó có hiệu lực pháp luật. Mà theo quy định nên trên thì bản án đang được kháng cáo thì chưa có hiệu lực nên chưa phải thi hành án.
Trân trọng!
Phan Hồng Công Minh