Trong vụ án hình sự thì thẩm quyền quyết định bảo lĩnh thuộc về ai?
Thẩm quyền quyết định bảo lĩnh trong vụ án hình sự thuộc về ai?
Những người có thẩm quyền ra quyết định bảo lĩnh được quy định tại Khoản 4 Điều 121 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, cụ thể như sau:
- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành;
- Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp;
- Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử.
- Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền ra quyết định bảo lĩnh.
Quyết định bảo lĩnh của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền ra quyết định bảo lĩnh (trừ thẩm phán chủ tọa phiên tòa) phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
Thẩm quyền quyết định bảo lĩnh trong vụ án hình sự thuộc về ai? (Hình từ Internet)
Có được áp dụng biện pháp bảo lĩnh bằng tiền trong mọi trường hợp không?
Căn cứ pháp lý tại Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và Thông tư liên tịch 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP.
Các trường hợp được áp dụng biện pháp nộp tiền để được tại ngoại, bao gồm:
- Bị can, bị cáo phạm tội lần đầu; có nơi cư trú rõ ràng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.
- Bị can, bị cáo có khả năng về tài chính để đặt bảo đảm theo quy định. Đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần mà không có hoặc không đủ tiền để đặt bảo đảm thì xem xét đến khả năng tài chính của người đại diện hợp pháp của họ.
- Có căn cứ xác định, sau khi được tại ngoại, bị can, bị cáo sẽ có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng và không tiêu huỷ, che giấu chứng cứ hoặc có hành vi khác cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử.
- Việc cho bị can, bị cáo tại ngoại không gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự.
Vậy nên, chỉ được áp dụng biện pháp bảo lĩnh bằng tiền trong các trường hợp như bị can, bị cáo phạm tội lần đầu; có nơi cư trú rõ ràng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Bị can, bị cáo có khả năng về tài chính để đặt bảo đảm theo quy định. Có căn cứ xác định, sau khi được tại ngoại, bị can, bị cáo sẽ có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng và không tiêu huỷ, che giấu chứng cứ hoặc có hành vi khác cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử. Việc cho bị can, bị cáo tại ngoại không gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự.
Nghĩa vụ của bị can, bị cáo được bảo lĩnh theo Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành được quy định như thế nào?
Theo khoản 3 Điều 121 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định bảo lĩnh như sau:
Bị can, bị cáo được bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ:
a) Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan;
b) Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội;
c) Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
Trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan quy định tại khoản này thì bị tạm giam.
Bị can, bị cáo được bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ: Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan; Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội; Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
Trân trọng!
Nguyễn Minh Tài