Mất giấy đăng ký kết hôn, có ly hôn được không? Ly hôn có nhất thiết phải hòa giải?
Mất giấy đăng ký kết hôn, có ly hôn được không?
Xin chào ban biên tập, tôi và chồng chung sống với nhau được 05 năm thì xảy ra mâu thuẫn. Chúng tôi không thể tiếp tục chung sống được với nhau nữa. Tôi muốn xin được ly hôn, tuy nhiên giấy đăng ký kết hôn của tôi đã bị thất lạc. Anh chị cho tôi hỏi mất giấy đăng ký kết hôn, có ly hôn được không? Xin giải đáp giúp tôi.
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình 2014 về quyền yêu cầu giải quyết ly hôn như sau:
"Điều 51. Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn
1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn."
Theo quy định trên thì vợ, chồng hoặc của hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Để đề nghị tòa án giải quyết cho ly hôn, người liên quan phải chứng minh có quan hệ hôn nhân hợp pháp, nghĩa là phải có giấy đăng ký kết hôn.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 24 Nghị định 123/2015/NĐ-CP: “Việc khai sinh, kết hôn, khai tử đã được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam trước ngày 1/1/2016 nhưng Sổ hộ tịch và bản chính giấy tờ hộ tịch đều bị mất thì được đăng ký lại”.
Do đó, để giải quyết việc ly hôn trước tiên bạn cần đến Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi đã đăng ký kết hôn trước đây để nộp hồ sơ xin cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn, thủ tục này được quy định tại Điều 27 Nghị định 123/2015/NĐ-CP, cụ thể như sau:
“1. Hồ sơ đăng ký lại kết hôn gồm các giấy tờ sau:
a) Tờ khai theo mẫu quy định;
b) Bản sao Giấy chứng nhận kết hôn được cấp trước đây. Nếu không có bản sao Giấy chứng nhận kết hôn thì nộp bản sao hồ sơ, giấy tờ cá nhân có các thông tin liên quan đến nội dung đăng ký kết hôn.
2. Trong 5 ngày làm việc, kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ, công chức tư pháp - hộ tịch kiểm tra, xác minh hồ sơ. Nếu thấy hồ sơ đăng ký lại kết hôn là đầy đủ, chính xác, đúng quy định pháp luật thì công chức tư pháp - hộ tịch thực hiện đăng ký lại kết hôn như trình tự quy định tại Khoản 2 Điều 18 của Luật Hộ tịch.
Nếu việc đăng ký lại kết hôn thực hiện tại Ủy ban nhân dân cấp xã không phải là nơi đã đăng ký kết hôn trước đây thì công chức tư pháp - hộ tịch báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân nơi đăng ký kết hôn trước đây kiểm tra, xác minh về việc lưu giữ sổ hộ tịch tại địa phương.
Trong 5 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị, Ủy ban nhân dân nơi đã đăng ký kết hôn trước đây tiến hành kiểm tra, xác minh và trả lời bằng văn bản về việc còn lưu giữ hoặc không lưu giữ được sổ hộ tịch.
3. Trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được kết quả xác minh về việc không còn lưu giữ được sổ hộ tịch tại nơi đã đăng ký kết hôn, nếu thấy hồ sơ đầy đủ, chính xác, đúng quy định pháp luật công chức tư pháp - hộ tịch thực hiện việc đăng ký lại kết hôn như quy định tại Khoản 2 Điều này.
4. Quan hệ hôn nhân được công nhận kể từ ngày đăng ký kết hôn trước đây và được ghi rõ trong Giấy chứng nhận kết hôn, Sổ hộ tịch. Trường hợp không xác định được ngày, tháng đăng ký kết hôn trước đây thì quan hệ hôn nhân được công nhận từ ngày 1/1 của năm đăng ký kết hôn trước đây”.
Như vậy, sau khi được cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn, bạn vẫn có quyền nộp đơn xin ly hôn gửi lên tòa án cấp có thẩm quyền để yêu cầu giải quyết.
Ly hôn có nhất thiết phải hòa giải không?
Tôi và chồng đều có nguyện vọng ly hôn, tham khảo thông tin từ mọi người thì tôi được biết ly hôn phải tiến hành hòa giải, tôi muốn hỏi vợ chồng tôi có thể ly hôn mà không cần hòa giải được không?
Trả lời:
Hiện nay có hai hình thức hòa giải đang được áp dụng phổ biến trong thủ tục ly hôn, đó là hòa giải ở cơ sở và hòa giải tại tòa án, cụ thể như sau:
- Hòa giải tại cơ sở: Căn cứ quy định tại Điều 52 Luật hôn nhân và gia đình 2014 có quy định Khuyến khích hòa giải ở cơ sở: “Nhà nước và xã hội khuyến khích việc hòa giải ở cơ sở khi vợ, chồng có yêu cầu ly hôn. Việc hòa giải được thực hiện theo quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở”. Như vậy thì thủ tục hòa giải tại cơ sở không phải là thủ tục bắt buộc.
- Hòa giải tại tòa án: Căn cứ quy định tại Điều 54 Luật hôn nhân và gia đình 2014 có quy định về hòa giải tại tòa án: “Sau khi đã thụ lý đơn yêu cầu ly hôn, tòa án tiến hành hòa giải theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.”
Mặt khác căn cứ Điều 205 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định về nguyên tắc hòa giải có quy định:
- Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 206 và Điều 207 của Bộ luật này hoặc vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn.”
Như vậy trừ những trường hợp ngoại lệ được quy định tại các Điều 206, 207 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 về những vụ án dân sự không hòa giải được và những vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được bao gồm:
“Điều 206. Những vụ án dân sự không được hòa giải
1. Yêu cầu đòi bồi thường vì lý do gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước.
2. Những vụ án phát sinh từ giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội.
Điều 207. Những vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được
1. Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt.
2. Đương sự không thể tham gia hòa giải được vì có lý do chính đáng.
3. Đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự.
4. Một trong các đương sự đề nghị không tiến hành hòa giải.”
Thì việc hòa giải tại tòa án là một thủ tục bắt buộc phải có. Ban biên tập xin được thông tin đến bạn.
Vợ không đi làm chia tài sản khi ly hôn như thế nào?
Sau khi tốt nghiệp ra trường đi làm được một thời gian. Sau khi cưới chồng, tôi ở nhà nội trợ. Nay vì cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc nên vợ chồng tôi ly hôn. Trong thời gian chung sống, tôi không đóng góp gì nhiều cho việc tạo ra tài sản chung của 2 vợ chồng. Vậy Ban biên tập cho tôi hỏi. Với trường hợp của tôi có được chia tài sản gì khi ly hôn không?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình 2014, có quy định về tài sản chung của vợ chồng như sau:
- Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
- Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
- Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
Như vậy, tuy bạn không đóng góp gì việc tạo ra tài sản trong thời kỳ hôn nhân, bạn chỉ ở nhà nội trợ nhưng những tài sản vợ chồng bạn có được sau khi kết hôn vẫn có thể là tài sản thuộc sở hữu của bạn.
Việc phân chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn được quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, có nêu:
- Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
+ Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
+ Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
+ Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
+ Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng
Như vậy, tuy bạn chỉ ở nhà nội trợ nhưng khi chia tài sản khi ly hôn của vợ chồng bạn, bạn vẫn được chia và nhận phần tài sản của mình. Tòa sẽ dựa vào các yếu tố như hoàn cảnh của bạn, công sức đóng góp của bạn vào tài sản chung đó, việc bạn ở nhà nội trợ cũng góp một phần đóng góp để chồng bạn tạo ra tài sản.
Trân trọng!
Mạc Duy Văn