Trường hợp con nuôi không đăng ký có được thừa kế tài sản của cha mẹ nuôi hay không?
Trường hợp con nuôi không đăng ký có được thừa kế tài sản của cha mẹ nuôi không?
Xin cho hỏi: Tôi được cha mẹ nuôi nhận nuôi năm 2000 nhưng từ đó đến nay không có đăng ký với nhà nước, nhưng bà con, họ hàng, hàng xóm xung quanh đều biết tôi là con nuôi của ba mẹ. Nhưng vừa qua, cha mẹ mất vì tai nạn giao thông nên không có di chúc. Các anh chị em không cho tôi thừa kế tài sản của cha mẹ vì tôi không phải con nuôi chính thức. Xin cho hỏi, tôi có thể kiện được không ạ?
Trả lời: Theo quy định tại Điều 653 Bộ luật dân sự 2015 thì con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651 và Điều 652 Bộ luật dân sự 2015.
Theo đó, theo quy định tại Bộ luật dân sự 2015 thì trường hợp người chết không để lại di chúc thì tài sản sẽ được chia theo pháp luật. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Trong đó, hàng thừa kế được xác định cụ thể như sau:
- Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
- Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
- Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Như vậy: Căn cứ quy định được trích dẫn trên đây thì cha mẹ nuôi và con nuôi có quyền thừa kế tài sản của nhau theo quy định của pháp luật, trường hợp cha mẹ nuôi mất, con nuôi vẫn được quyền hưởng di sản thừa kế của cha mẹ nuôi giống như con đẻ.
Tuy nhiên, con nuôi chỉ được nhận thừa kế tài sản của cha mẹ nuôi khi việc nhận nuôi con nuôi được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Theo đó, theo quy định tại Điều 50 Luật nuôi con nuôi 2010 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2011) thì việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau trước ngày Luật này có hiệu lực mà chưa đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì được đăng ký trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày 01/01/2011 có hiệu lực, nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
- Các bên có đủ điều kiện về nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật tại thời điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi;
- Đến thời điểm 01/01/2011 có hiệu lực, quan hệ cha, mẹ và con vẫn đang tồn tại và cả hai bên còn sống;
- Giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục nhau như cha mẹ và con.
Sau khi được đăng ký, quan hệ nuôi con nuôi được đăng ký theo quy định trên có giá trị pháp lý kể từ thời điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi.
Mặt khác, theo quy định tại việc nuôi con nuôi đã phát sinh trên thực tế giữa công dân Việt Nam với nhau mà chưa đăng ký trước ngày 01/01/2011, nếu đáp ứng các điều kiện kể trên, thì được đăng ký kể từ ngày 01/01/2011 đến hết ngày 31/12/2015 tại Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi thường trú của cha mẹ nuôi và con nuôi.
Lưu ý: Quy định trên cũng được áp dụng đối với trường hợp công dân Việt Nam thường trú ở khu vực biên giới nhận trẻ em của nước láng giềng cư trú ở khu vực biên giới của nước láng giềng làm con nuôi trước ngày 01/01/2011 mà chưa đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Như vậy: Căn cứ các quy định được trích dẫn trên đây thì việc nuôi con nuôi phát sinh trước ngày 01/01/2011 thì phải đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi thường trú của cha mẹ nuôi và con nuôi) trong thời hạn 05 năm kể từ ngày 01/01/2011.
Sau khi đăng ký và được được pháp luật công nhận việc nuôi con nuôi thì cha mẹ nuôi và con nuôi sẽ có các quyền lợi và nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật, trong đó bao gồm quyền thừa kế di sản của nhau theo quy định tại Bộ luật dân sự 2015.
Tuy nhiên, theo như thông tin bạn cung cấp cho chúng tôi thì bạn được cha mẹ nuôi nhận nuôi năm 2000, nhưng từ đó đến nay không có đăng ký với nhà nước, nên về mặt pháp lý hiện nay nó không làm phát sinh các quyền lợi và nghĩa vụ giữa bạn và cha mẹ nuôi đối với nhau theo quy định của pháp luật, trong đó bao gồm quyền thừa kế di sản của nhau.
Do đó: Về mặt pháp lý, bạn không được xác định là người thừa kế của cha mẹ nuôi, nên khi cha mẹ nuôi của bạn mất vì tai nạn giao thông không có di chúc thì bạn không được thừa kế di sản của cha mẹ nuôi để lại sau khi mất.
Trên đây là quan điểm tư vấn của chúng tôi đối với vấn đề mà bạn đang thắc mắc.
Con ngoài giá thú có được thừa kế tài sản?
Tôi quen anh và biết anh đã có gia đình nhưng tôi vẫn mù quáng yêu và sinh con cho anh, anh cũng không chối bỏ trách nhiệm mà chấp nhận làm xác nhận cha và con tôi có giấy khai sinh có cả cha và mẹ, vợ anh cũng biết. Nay con đã được 5 tuổi. Nhưng vừa qua, lúc đi công trình anh không may bị tai nạn qua đời. Tôi muốn hỏi, con trai của tôi có được thừa kế tài sản của anh hay không vì tôi bị vợ con anh ngăn cản không cho vì con tôi là con ngoài giá thú?
Trả lời: Theo quy định tại Điều 68 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì con sinh ra không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha mẹ, cha mẹ đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với cha mẹ của mình được quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình 2014, Bộ luật dân sự 2015 và các luật khác có liên quan.
Như vậy: Căn cứ thông tin bạn cung cấp thì bạn quen người đàn ông đó, và đã sinh con cho anh ta, đã được xác nhân thông tin cả cha (thông tin của người đàn ông đó) và mẹ trên giấy khai sinh theo quy định của pháp luật về nhận con và đăng ký khai sinh.
Nên đứa trẻ được xác định là con chúng của bạn và người đàn ông đó. Đồng nghĩa, nó làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa hai cha con theo quy định của pháp luật.
Theo quy định tại Bộ luật dân sự 2015 thì trường hợp người chết không để lại di chúc thì tài sản sẽ được chia theo pháp luật. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản. Hàng thừa kế được xác định cụ thể như sau:
- Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
- Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
- Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Như vậy: Căn cứ quy định được trích dẫn trên đây thì có thể thấy pháp luật hiện hành không phân biệt con trong giá thú hay con ngoài giá thú khi xác định quyền thừa kế tài sản mà người đã chết để lại. Đồng nghĩa, trường hợp các con đều được xác định là con của người đã mất thì đều có quyền thừa kế tài sản mà người đó để lại sau khi chết theo quy định của pháp luật (trường hợp có di chúc thì thực hiện theo di chúc).
Do đó: Trường hợp có đủ cơ sở để xác định con trai của bạn cũng là con trai ruột của người đàn ông đó (có giấy khai sinh) thì con của bạn có quyền thừa kế tài sản của người đó theo quy định của pháp luật. Đồng nghĩa, di sản của người đàn ông đó sẽ được chia đều cho con bạn, vợ, con ruột, con nuôi (nếu có), cha mẹ (nếu còn sống) của người đàn ông đó.
Trên đây là quan điểm tư vấn của chúng tôi đối với vấn đề mà bạn đang thắc mắc.
Người bị tuyên bố chết trở về có được tiếp tục chia di sản thừa kế?
Anh hai tôi đi làm ăn xa, cả chục năm nay không về cũng không có thông tin gì, vợ anh 2 là chị dâu tôi cũng đã làm thủ tục tuyên bố một người đã chết theo quy định và khi có quyết định vài tháng thì chị dâu tôi cũng có chồng khác. Mẹ chúng tôi thì mất đã lâu, tuy nhiên ngày bố mất anh 2 cũng không về, gia đình chúng tôi có 4 anh chị em và tôi là út, nay 03 chị em chúng tôi đang chia di sản của bố thì anh 2 trở về, vậy cho tôi hỏi, người bị tuyên bố chết trở về có được tiếp tục chia di sản thừa kế?
Trả lời: Theo quy định tại Điều 73 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định thì khi một người bị tuyên bố là đã chết trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo yêu cầu của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết. Như vậy, có nghĩa là khi anh bạn quay về nếu có yêu cầu thì Tòa án nơi tuyên bố người đã chết sẽ ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết.
Đồng nghĩa, quan hệ nhân thân của người bị tuyên bố là đã chết được khôi phục khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết. Tuy nhiên, đối với vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã được tòa án cho ly hôn theo quy định; vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã kết hôn với người khác thì việc kết hôn vẫn có hiệu lực pháp luật.
Cũng theo quy định này, người bị tuyên bố là đã chết mà còn sống có quyền yêu cầu những người đã nhận tài sản thừa kế trả lại tài sản, giá trị tài sản hiện còn. Trường hợp người thừa kế của người bị tuyên bố là đã chết biết người này còn sống mà cố tình giấu giếm nhằm hưởng thừa kế thì người đó phải hoàn trả toàn bộ tài sản đã nhận, kể cả hoa lợi, lợi tức; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.
=> Như vậy, theo như những gì phân tích ở trên thì người bị tuyên bố chết trở về vẫn được tiếp tục chia di sản thừa kế theo quy định.
Trân trọng!
Lê Bảo Y