Vay tiền lãi suất cao
Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định (Điều 471 Bộ luật Dân sự). Nếu hai bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất cho vay không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng (khoản 1 Điều 476).
Hiện nay, mức lãi suất cơ bản bản đồng Việt Nam mà Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đưa ra và áp dụng từ ngày 01/12/2010 là 9%/năm theo Quyết định số 2868/QĐ-NHNN ngày 29/11/2010. Theo quy định này thì có thể xác định được: mức lãi suất tối đa mà các bên có thể thỏa thuận khi cho vay tiền là: 9*150%=13,5%/năm, tức là 1,125%/tháng.
Như vậy:
- Nếu trong hợp đồng vay tiền ký giữa bạn và công ty A có ghi rõ mức lãi suất là 60,7%/tháng thì đương nhiên có thể khẳng định: mức lãi suất mà công ty A áp dụng là quá cao, đây là hành vi trái quy định của pháp luật. Khi có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ (khoản 2 Điều 476 Bộ luật Dân sự).
- Nếu hợp đồng vay tiền ký giữa bạn và công ty A có thỏa thuận về lãi nhưng không ghi rõ lãi suất, mà chỉ ghi số tiền mà bạn phải trả hàng tháng thì bạn chỉ phải trả cho công ty A số tiền lãi tính theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng (khoản 2 Điều 476 Bộ luật Dân sự).
Trong hai trường hợp nêu trên, nếu bạn và công ty A thỏa thuận lại về mức lãi suất theo đúng quy định của Bộ luật Dân sự thì bạn có thể căn cứ vào quy định nêu trên để xác định mức lãi suất phù hợp. Trường hợp không thỏa thuận được với công ty A mà hợp đồng cho vay đã thực hiện thì bạn có quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án xác định lại mức lãi suất của hợp đồng vay tiền đó đồng thời làm rõ hành vi trái pháp luật của công ty A. Ngoài việc làm trái quy định của pháp luật dân sự về lãi suất cho vay thì hành vi của công ty A còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cho vay lãi nặng theo Điều 163 Bộ luật Hình sự, cụ thể như sau:
1.Người nào cho vay với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định từ mười lần trở lên có tính chất chuyên bóc lột, thì bị phạt tiền từ một lần đến mười lần số tiền lãi hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến một năm.
2.Phạm tội thu lợi bất chính lớn thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
3.Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một lần đến năm lần số lợi bất chính, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
Thư Viện Pháp Luật